Hồi hý của một thằng hèn


Chương 3

BƯỚC NGOẶT ĐỊNH MỆNH

Tôi không thích thơ Vũ Hoàng Chương ([1]) cho lắm, nhưng câu: “Lũ chúng ta đầu thai nhầm thế kỷ”... của anh, tôi vẫn thấy đúng, ít nhất là với lũ chúng tôi, có lòng yêu nước, biết ghét thằng Tây thực dân nhưng sinh ra và lớn lên giữa cái thời mọi sự đều đảo lộn.

Đại chiến thứ II với những đảng phái đủ kiểu tên gọi mọc ra hàng loạt... Rồi Nhật lật Pháp. Cờ mặt trời kéo lên. Cờ tam tài hạ xuống. Chủ nghĩa Đại Đông Á với những bài ca Aikoku, Shina no Yoru... những bộ phim võ sĩ đạo, những ngôi sao điện ảnh ca nhạc Phù Tang xinh đẹp kiểu Setsuko Hara ([2]) đang lôi cuốn chúng tôi vào niềm tự hào “Á châu của người châu Á” thì... bom Mỹ đổ xuống chợ Hàng Da, Quần Ngựa. Các trường học đều phải di tản.

Mọi sự thay đổi với tốc độ chóng mặt. Mới cách đó có vài tháng, hàng ngày lớp trẻ Việt Nam còn buộc phải chào cờ Pháp, hát bài ca tụng “vị cứu tinh của nước Pháp” là thống chế Pétain, thì đã đến một thời khác với câu ca “Này thanh niên ơi! Quốc gia đến ngày giải phóng... ” dưới bóng cờ Nhật và cờ vàng quẻ ly!

Bảo Đại, khâm sai đại thần Phan Kế Toại, Trần Trọng Kim, ông nào cũng nói Độc Lập và hô hào dân chúng “đứng lên xây dựng nước nhà”!

Tiếng đồn về một tổ chức Việt Minh được người Mỹ trang bị và huấn luyện, có cả máy bay hai thân tiếp tế, có quân Đồng Minh giúp sức, đã cướp chính quyền ở miền ngược. Còn giáp giới Trung Hoa thì có cả ngàn quân cách mạng Quốc Dân Đảng đầy đủ súng ống do Trung Hoa Dân Quốc hỗ trợ, sẽ trở về thủ đô cướp chính quyền.

Lắm tin đồn, lắm chuyện “dệt gấm thêu hoa” khiến lớp trẻ lúc ấy chán ngấy cảnh học đường bát nháo, chỉ muốn “xếp bút nghiên lên đường tranh đấu”, như một “chiến sĩ anh hùng”, hoặc chí ít cũng thoát cảnh bế tắc trong cuộc sống rối bời canh hẹ từ trong nhà ra ngoài phố.

Chẳng có gì lạ khi trong một lớp học, kẻ theo Quốc Dân Đảng, kẻ theo Việt Minh mà trong đầu chẳng hiểu ai cách mạng, ai cơ hội, ai phản động, ai phản động với ai?

Với những nông dân nghèo sắp chết đói thì con đường cầm súng đánh Tây là con đường duy nhất để tự cứu mình! Lớp chúng tôi, không nghèo đói, nhưng chưa giàu tới mức có thể lánh sang “nước mẹ” như Phạm Kỳ Nam, Thẩm Võ Hoàng ([3]), là lớp trẻ hăng tiết vịt nhưng đại mù quáng sẵn sàng cầm súng lên đường theo... bất cứ ai, miễn họ nói: “Đánh Tây giành độc lập!”.

Chẳng có giác ngộ cách mạng cách miếc gì!

Thằng nào không bị mang tiếng “phản động” thì được người của Việt Minh móc nối! Tôi là người may mắn hay không may mắn, được Tô Kim Châu, giáo dục tuyên truyền chủ nghĩa cách mạng chân chính. Ông bơm vào lắm huyền thoại về Việt Minh, về Nguyễn Ái Quốc cho ba anh em chúng tôi, Tô Như Khuê, Tô Huy Hoán và tôi. Những bài học chính trị và cả những bài hát như Tiến Quân Ca ông mang về sau những chuyến đi vắng nhà cả tháng đã khơi dậy trong tôi niềm tin vào chủ nghĩa yêu nước chân chính mà đại diện là ông Nguyễn Ái Quốc. Và cả 3 chúng tôi đều trở thành chiến sĩ Vệ Quốc Đoàn ngay từ ngày đầu cách mạng tháng 8. Tô Như Khuê suýt bỏ mạng ở Tiên Yên, Ba Chẽ sau này trở thành giáo sư Đại Học Quân Y, hàm đại tá. Tô Huy Hoán, một thời làm tư lệnh trưởng binh chủng Công Binh cũng về hưu với hàm đại tá. Còn tôi, qua hai trường quân sự tốt nghiệp có văn bằng hẳn hoi thì trở thành... nhạc sĩ!

Điều bi hài nhất trong cuộc đổi đời này là số phận của chính người giác ngộ cách mạng cho chúng tôi, anh Tô Kim Châu. Sau những năm hoạt động tích cực cho phong trào Bình Dân Học Vụ, cho Việt Minh, anh theo kháng chiến. Bẵng đi mấy năm không tin tức, tôi được tin anh đã “dinh tê” ([4])! Sau năm 1954 khi chiến tranh kết thúc, chúng tôi trở về Hà Nội thì nghe tin anh đã vào Nam với chức trung tá luật sư chưởng lý tòa án binh... “ngụy”!

Năm 1975, tôi vào Sài Gòn gặp anh đúng một lần thì anh bị bắt đi “học tập cải tạo”! Mười một năm sau anh mới trở về, mặc dầu anh là sĩ quan biệt phái làm chuyên môn do có bằng cử nhân luật, chứ chẳng cầm súng ngày nào. Anh chỉ có một tội không thể tha thứ là ngoan cố tới cùng: Suốt thời gian cải tạo anh không chịu nhận tội làm tay sai mà trưng ra bằng chứng là anh đã nhiều lần phanh phui tội của các cấp chỉ huy cao nhất trong quân đội VNCH như vụ Đỗ Cao Trí buôn thuốc phiện, vụ Nguyễn Văn Vỹ “nuốt” cả hàng loạt thang máy...

Những ngày này, ở tuổi ngoài 80, anh vẫn không hối hận về chuyện “phản bội” cũng như chuyện “ngoan cố” của mình. Anh nói: “Tôi là người yêu nước nhưng tôi không thể nào yêu cái chủ nghĩa cộng sản của các chú được. Vì đối với tôi, nó cực kỳ duy tâm, nó là vô đạo lý và chỉ là một mớ lý thuyết phản khoa học mà một số người muốn dựa vào để kiếm chác quyền lực. Khi tôi cọ xát với mấy ông cộng sản thì tôi thấy mình tránh xa các ông ấy là đúng! Bỏ cộng sản “dinh tê” vì họ đã... phản động đối với tôi khi mời tôi ra làm việc như chú đã biết đấy. Đến hôm nay chú đã trắng mắt ra chưa? Còn gì là cái “chủ nghĩa không có thực đó” ở trên trái đất và ngay ở đất nước Việt Nam này?” Tôi không tán thành chủ nghĩa cộng sản, không tán thành cách làm ăn không lương thiện của mấy ông miệng nói một đằng, tay làm một nẻo. Tôi không yêu nước theo kiểu các ông vì các ông đã phản động đối với tôi!. Tôi đi tìm con đường khác. Tôi thất vọng với đám Thiệu, Kỳ bao nhiêu thì tuyệt vọng với cái Xã Hội Chủ Nghĩa dã man của các ông gấp bội. Làm gì có chủ nghĩa cộng sản duy tâm ở trên đời này và cái “thiên đường” cộng sản đó càng không thể nào có, cũng chưa bao giờ có ở cái nước Việt Nam mà bất công xã hội có lẽ đứng đầu thế giới hiện nay. Cứ lấy ngay cái lương của ông, (tức là tôi) của cháu Vũ đây ra mà ngẫm xem. Có bằng nửa lương của bà quét rác không?”

Ôi! Con người đã giác ngộ cách mạng cho tôi cách đây 50 năm hôm nay vẫn còn “ngoan cố” lắm dù đã qua 11 năm “cải tạo”! Gặp anh Châu những ngày tôi bước vào tuổi thất thập cổ lai hy, tôi như sống lại những ngày tiền khởi nghĩa. Vẫn cái điệu bộ nói năng như đinh đóng cột của một ông sắp giật tấm bằng cử nhân luật bỏ nghề đi dạy i tờ, lên chiến khu họp Việt Minh, trở về với điệu bộ nửa bí mật, nửa công khai báo cho chúng tôi biết: “Nhật sắp đầu hàng, thời cơ cướp chính quyền trong tay Pháp-Nhật đã đến. Toàn dân phải đứng dậy! Ngòi nổ trong các thành phố phải là học sinh, sinh viên vv...” Lúc ấy, anh Châu là thần tượng của chúng tôi, nhất là khi chính bố tôi cũng trở thành một thành viên tích cực hạng nhất của cái đảng gọi là đảng Dân Chủ. Ông là người ghét Pháp cực kỳ nhưng cũng... chống cộng kiên định!

Ngay trong một gia đình như gia đình tôi đã loạn xà ngầu các màu sắc cách mạng rồi! Trước 19-8-1945 độ một tuần, tôi được kết nạp vào tự vệ chiến đấu. Nhiệm vụ đầu tiên của tôi là cất giấu hai khẩu súng Nhật không có đạn và một khẩu Pạc-hoọc gãy báng gỗ cho Việt Minh, còn bố tôi là thủ quỹ cho cái đảng mà anh Châu gọi là đảng xôi thịt!

Sự phân hóa trong gia đình tôi càng rõ trong những ngày tháng 8 năm 1945 ấy. Tôi như người “say” cách mạng, còn bố tôi thì dè bỉu, chửi bới hết lời. Phản ứng tức thời của ông ngày ấy là bỏ việc, mặc dầu người ta vẫn tín nhiệm khả năng chuyên môn của ông, nhưng chức chủ nhiệm sở bưu điện đã thuộc về một người mà theo bố tôi là “dân ngu khu đen!” Vì sự cách biệt về chính kiến, giữa hai cha con thường xuyên nổ ra tranh cãi dữ dội, có khi kết thúc bằng một cái bạt tai nổ đom đóm cho dù lúc ấy tôi đã tròn 18 tuổi! Tôi không thể chịu đựng thêm nữa sự đàn áp của bố và quyết tâm thoát khỏi sự ràng buộc khi có dịp. Dịp đó đã đến khi đội tự vệ chiến đấu do tôi chỉ huy được lệnh của tổ chức –– lúc ấy tôi không rõ là tổ chức nào –– sẽ sáp nhập vào tiểu đoàn Vệ Quốc Quân đầu tiên: Tiểu đoàn Thái Bình. Người chỉ huy tiểu đoàn này là ông đội khố xanh Dương Hữu Miên, ở cách nhà tôi có ba căn. Cái đó làm tôi ngạc nhiên đến sững sờ. Sau này tôi còn được biết thêm ông Ngô Lân, quản khố đỏ, trung đoàn trưởng trung đoàn Uông Bí; các ông An Giao, Võ An Khang, Mạnh Hùng, Hai Giá, Hai Trí đều từ hàng ngũ quân đội thực dân, nắm quyền chỉ huy nhiều đơn vị Vệ Quốc Đoàn ở Chiến Khu III buổi ban đầu đó. Chính quá trình làm “tay sai cho giặc” đã khơi dậy ý chí quyết tâm đứng lên xóa bỏ thân phận nô lệ, và họ đã rời bỏ mọi thứ quyền lực, địa vị, gia đình, tiền bạc để đi theo Cách Mạng. Thời ấy, một ông quản khố xanh (adjudent), một ông đội khố đỏ đã được gọi là “quan” và có cuộc sống ngang hàng với một chủ nhiệm cỡ bố tôi chứ chưa nói đến một lieutenant (trung uý) như ông Hai Giá, ông Hai Trí... Vậy mà họ ghét Tây, căm thù Tây, đứng lên cầm súng Tây bắn lại Tây. Tiếc thay, những con người đáng yêu và đáng kính đó, càng sống lâu với cách mạng họ càng thấy rõ chẳng bao giờ được cách mạng tin tưởng 100%! Trong lý lịch của họ, không bao giờ xóa đi mấy chữ hạ sĩ quan, sĩ quan quân đội địch!

Tổ chức –– sau này tôi mới biết đó là các chi bộ cộng sản giả vờ giải tán –– không bao giờ coi họ là đáng tin cậy để đưa họ vào hàng ngũ những người “tiên phong, ưu tú nhất của giai cấp vô sản”. Mãi những năm 1950, hầu như các trung đoàn trưởng của các trung đoàn tập trung đầu tiên tại Liên Khu III vẫn không phải đảng viên mà chỉ là “quần chúng cần được theo dõi, giúp đỡ, giáo dục”!

Tôi càng rõ hơn điều này khi được điều động về làm “lính kiểng” của Bộ Tư Lệnh Liên Khu III. Tôi đã đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác trước hiện tượng phân biệt đối xử trong hàng ngũ kháng chiến. Thế nào mới là người yêu nước? Câu hỏi đó thường trực dằn vặt tâm trí tôi cho đến suốt đời. Bỏ tất cả: gia đình, nhà cửa, mọi quyền lợi đang có, ra đi cầm súng đánh Tây, ngã gục trước làn đạn của quân thù vẫn hô to “Việt Nam độc lập muôn năm”, hùng hồn tuyên bố trước khi nhận viên đạn bắn thẳng vào đầu của kẻ thù:“Nous sommes des vainqueurs – Chúng tao là kẻ chiến thắng”. Đó là trường hợp xảy ra với anh Đạo, đội trưởng đội Tuyên Truyền Xung Phong trong vụ tử thủ Nhà Hát Lớn Hải Phòng. Sự hy sinh như thế chẳng phải là tấm gương yêu nước đáng nêu danh muôn đời? Vậy mà tới nay, có lẽ ngoài tôi dâng lên hương hồn họ bằng bài viết “Một nén nhang cho những người chiến sĩ văn nghệ vô danh” ([5]) chẳng còn ai nhắc đến họ. Ôi! Những Tử Giang, Kỳ vẩu, Hãn béo, Hãn đen, những Kính ngổ, Thái tồ... Họ đã chết, chết rất sớm và không ít người còn bị mang cái tiếng “Anh hùng cá nhân tiểu tư sản!”

Chính những hy sinh cao cả của họ đã là nguồn cảm hứng để tôi viết những câu “Chờ chồng, mong con về ngày chiến thắng, trong toán quân về đếm thiếu những ai?”... trong bài Trở Lại Đô Thành. Nó cũng là một báo hiệu về khúc quanh mới trong cuộc đời khốn nạn của tôi, con đường văn nghệ, con đường sẽ dẫn tôi lên thác xuống ghềnh, sứt đầu, mẻ trán kể cả suýt “thân bại danh liệt”! Lý do duy nhất: trái tim tôi không cùng nhịp đập với những kẻ nắm sinh mạng con người trong tay mà đầu thì chứa toàn bã đậu, tâm hồn thì đen tối, bẩn thỉu!

Hàng loạt ca khúc được viết trong thời kỳ làm lính, “một cách để được nói thật với chính mình”, của Canh Thân, Ngọc Bích, Việt Lang ([6]) ở Khu III, của Đoàn Chuẩn ([7]), Hoàng Giác ([8]), Tô Vũ ([9]) ở Việt Bắc và của tôi ở các đơn vị Khu III, Trường Lục Quân Trần Quốc Tuấn, ở Khu IV sau này đã bị những cú “đánh chết tươi” vì “sặc mùi tiểu tư sản ủy mị”, “mất lập trường”, thậm chí “ảnh hưởng tai hại đến tinh thần chiến đấu” của quân đội! Tất cả những gian truân, đau khổ, chịu đựng vượt quá sức con người, đẩy họ tới những quyết định “thề chết không cầm bút, cầm đàn nữa” như trường hợp Việt Lang, Hữu Loan ([10])…

Tôi, cũng như bao nhiêu thanh niên thời ấy, bị cuốn hút bởi đủ thứ ngôn từ sáo rỗng, nào “vung gươm ra sa trường” dù cho “da ngựa bọc thây”, “thề phanh thây, uống máu quân thù...” mà giờ đây, phải thấy là “tuyên truyền kích động rẻ tiền” thậm chí sặc mùi chém giết dã man mà vẫn quyết chí “ra đi không hẹn ngày về”.

Trong số bạn đồng khoá với tôi lên đường Nam tiến chỉ còn sót lại Bùi Xuân Vĩnh, hiện là bác sĩ ngoài Đảng, do nửa đường ngã bệnh!

Toàn bộ đoàn quân Tây Tiến đón đoàn quân Diên An cũng thế, gần như không một ai trở lại. Họ đã lần lượt ra đi vì sốt rét ác tính, nhiều người còn chưa được một lần nổ súng diệt một kẻ thù nào. Chỉ có tiếng cồng tiễn đưa họ về nơi ngàn suối. Chỉ một tiếng cồng mà thôi, để báo đã có một “chiến sĩ anh hùng” bỏ xác nơi rừng thiêng nước độc! Nếu có tiếng thứ hai, thứ ba, thứ bốn... thì đó là thêm người thứ hai, thứ ba, thứ bốn... Bài Tiếng Cồng Quân Y của đại đội trưởng Vũ Như Trang đã được viết bằng trái tim anh trong cảnh chính anh nằm chờ tiếng cồng dành cho mình. Đến hôm nay, người ta cố tình lờ đi không dám phục hồi bài ca chiêu hồn ấy dù đã phục hồi bài thơ của Quang Dũng ([11]) “Tây tiến đoàn quân không mọc tóc...”

Bài thơ của Quang Dũng ít ghê rợn hơn, ít làm mất tinh thần chiến đấu của “quân đội nhân dân anh hùng” hơn chăng? Có một lý do mà chỉ người cùng thời đó biết, nhưng không ai muốn cải chính khi thấy bạn mình được “tô hồng” sau nhiều năm bị đánh đấm đến nỗi từ một ông hộ pháp trở thành chàng thi sĩ gày còm, không một xu dính túi nhưng vẫn sống trong sáng, hiền lành, giản dị, vị tha đến cuối đời. Quang Dũng may mắn không phải lính chiến như Trang, như Đức, như nhiều bạn bè của tôi, của anh. Anh được bộ chỉ huy Tây Tiến xếp cho làm “lính kiểng”, nghĩa là không bị nằm đợi tiếng cồng báo tử như tác giả của Tiếng Cồng Quân Y! Còn tôi, cái số cũng y như Quang Dũng, nghĩa là vừa vào Vệ Quốc Đoàn đã bị kéo ngay về Bộ Tư Lệnh Chiến Khu III vì biết nói tiếng Tây và biết hát, biết đàn!

Khi Hải Phòng nổ phát súng đầu tiên ([12]), tôi vẫn chưa học qua một lớp huấn luyện quân sự nào. Vậy mà tôi đã thản nhiên nằm giữa đường Cát Dài, trụ sở của Phòng Quân Nhu, cùng hai chú “lính cậu” như tôi là Lê Kim Ưởng và Nguyễn Đăng. Với khẩu thompson mua được của mấy tay “bấu xấu” ngoài cảng chúng tôi yên trí sẽ diệt không sót tên Pháp nào dám lại gần! Sự ngây thơ đến tội nghiệp này đã cướp đi mạng sống của hàng loạt lính kiểng trong đó có Đang là tay chơi ghi-ta Ha-oai trong nhóm “văn nghệ ngoài giờ” của chúng tôi. Lý do: Suốt ba ngày phục kích một cách lộ liễu, chúng tôi chẳng thấy một thằng Tây nào xuất hiện. Trái lại, đạn súng cối và trái phá đủ cỡ đủ kiểu liên hồi đổ xuống mọi vị trí làm bọn tôi không ít lần suýt mất mạng. Mãi sau này, đi học quân sự tôi mới hiểu bố trí đánh địch như thế khác nào “lạy ông tôi ở bụi này” hoặc “thân xác chúng tôi đây, xin mời các ông làm món chả nướng!” Cứ tưởng bắn hạ kẻ thù dễ như trong phim ảnh và mình là một Ken Maynard, một Charles Starett, một Gary Cooper ([13]) của Việt Nam vậy! Té ra “giết người có tổ chức” cũng phải có nghề, trời ạ! Đâu phải chỉ dăm bảy ngày chạy sang học lỏm vài ngón nghề chiến đấu ở đại đội Lê Khắc Tư đóng bên cạnh là đủ tài, đủ sức “diệt hết quân thù”. Và sự thật rành rành là quân thù đã diệt biết bao bạn bè tôi chỉ vì chúng tôi xông vào lò lửa chiến tranh không một trang bị kiến thức chiến đấu tối thiểu. Chúng tôi “hy sinh cho Tổ Quốc” ngay khi chưa kịp bắn viên đạn đầu tiên!

Riêng bản thân tôi, nói có Trời Đất, có Phật, Chúa, có Đức Allah, quả tình tôi chưa kịp bắn viên đạn nào khỏi nòng súng, chưa được chứng kiến kẻ thù nào chết ra sao! Nói cách khác, tôi đã thoát cái tội số một nơi Mười Điều Răn trong giáo lý Thiên Chúa giáo là tội “giết người”. Được cái vào thời gian ấy, tội ấy không những không bị lên án mà còn được khen ngợi! “Giết người có lý tưởng”, “giết người vì mục đích cao cả”, “vì giai cấp”, “vì chính nghĩa”...

Thế nhưng số phận lại đùa cợt với tôi bằng cách đẩy tôi vào con đường... quân sự! Đó là đầu năm 1947, ăn Tết xong, đại tá Hoàng Minh Thảo ([14]) ký quyết định cho tôi về học Trường Quân Chính Nguyễn Huệ Khóa I để trở thành người chỉ huy có bài bản sau này. Tôi đã mừng rỡ khi được hỏi “Thích về Đội Tuyên Truyền hay về Trường Quân Sự?” và trả lời: “Tôi thích làm nghề võ!” Thế là bắt đầu một sự trái khoáy đến không ngờ! Chính từ cái trường “võ” đầu tiên này mà tôi thành quan “văn nghệ”: nhạc sĩ nghiệp dư! Số là Trường Quân Chính tuy của Khu III, nhưng tập hợp gần như tất cả “tinh hoa” (về văn hóa) của bộ đội mà hầu hết là trai Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Thái Bình. Ngoài những giờ luyện tập vất vả ở thao trường thì các giờ lên lớp về lý thuyết như đạn đạo parabole, thuốc nổ TNT, cấu tạo đạn lõm... đều đòi hỏi học viên một vốn văn hóa chí ít cũng là đíp-lôm (tốt nghiệp trung học cơ sở). Những người gọi là có văn hóa, sinh hoạt bên nhau suốt dọc sông hai huyện Phù Dực và Quỳnh Côi, Thái Bình tất nhiên cũng cần đến những món ăn tinh thần mà thời đó, chẳng có gì ngoài bích báo và... hát. Hàng loạt “nhạc sĩ, ca sĩ” “tự túc” đã trưởng thành ở những lò quân sự, nơi không ít học viên đều rành mấy khúc hát của Vincent Scotto, vài khúc đàn của Schubert, Chopin, Beethoven... để khi rảnh rỗi, hát lên nỗi lòng mình y hệt các nhóm Pop-Rock A-A author-actor sau này. Trước kia, mỗi người ở một đơn vị thì hoạt động văn nghệ đơn lẻ này chẳng được mấy khuyến khích, thậm chí mấy ông chỉ huy bần cố nông còn cho là “trò chơi tư sản”. Nay được quây quần bên nhau, anh chiếc violon cà tàng, anh chiếc măng-đô-lin, cây ghi ta thùng sứt sẹo, đã thành một dàn nhạc. Hơn thế nữa, một học viên nguyên là dân chơi saxophone ténor ở bar dancing cũng sách kèn về nhập trường. Thế là, song song với việc học quân sự, chúng tôi hình thành một nhóm hoạt động âm nhạc cũng hòa tấu, cũng đệm cho đồng ca, đơn ca... “Tiếng lành đồn xa, tiếng hát vang xa”, chúng tôi thường được mời đi biểu diễn hội nghị này, hội nghị nọ, có lúc được miễn mọi công tác (gác đêm, tuần tra) và mọi “công vụ” (lấy gạo, kiếm củi) để lo tập tành văn nghệ. Trường tới đâu là địa phương đó vui hẳn lên như có gánh tuồng nào tới nhưng cũng đem lại nỗi lo cho nhiều người vì lắm khi tiếng đàn, tiếng kèn làm át cả tiếng máy bay Spitfire, Junker bỏ bom ngay ở đầu chợ, cuối làng.

Những bài hát đầu tay của tôi ra đời chính do yêu cầu của cái tổ chức văn nghệ bán chuyên nghiệp nhưng hết sức “có nghề” này. Bài Chiến Sĩ Khu III, Về Rừng Núi tôi “viết” (đúng hơn là “phịa” ra) chỉ vì đào đâu ra bài mới có son-phe đàng hoàng để dàn nhạc tồn tại nếu không có người biết viết nhạc lên giấy như tôi. Vậy mà dưới bàn tay chỉ huy và sắp xếp (lúc đó đâu có khái niệm phối khí) của thầy Quảng, một thầy dòng phá giới, với sự tham gia ý kiến, nhất là nhiệt tình say mê “chơi cho chính mình, động viên chính mình”, những sáng tác đó đã “sống huy hoàng” cho đến khi tôi... mãn khóa!

Số phận đã đưa đẩy tôi mắc phải và không gỡ nổi cái nghề âm nhạc đến cuối đời. Còn các bạn cùng chơi nhạc, cùng trình độ văn hóa âm nhạc như tôi hoặc hơn tôi thì kẻ ra mặt trận, người về quân nhạc. Nhưng tất cả đều nửa đường đứt gánh hoặc hy sinh như Tử Giang (sáo), Kỳ vẩu (violon). Còn lại dăm ba người nặng nợ với cây kèn, cây sáo như thầy Quảng, Bảng, Căn...thì sau này được thêm vài ngôi sao trên vai trong các đội lính kèn, có dịp gặp lại tôi đều tỏ ra ngán ngẩm cho cái nghề âm nhạc quanh đi quẩn lại hết phục vụ chào cờ đến tang lễ! Vài người còn như trách tôi về cái tội “đầu têu” trò âm nhạc “cây nhà lá vườn” năm xưa để họ lẹt đẹt mãi tới bây giờ! Với tôi, cả một lớp trẻ làm văn nghệ bằng văn hóa và trái tim lúc đó mới là nhạc sĩ đích thực! Tôi dám khẳng định là một số nay tuy đã trở thành bác sĩ, giáo sư, thậm chí đang chết dần chết mòn ở nước ngoài vì trốn chạy cộng sản còn giỏi âm nhạc gấp ngàn lần mấy vị hội viên Hội Nhạc Sĩ Việt Nam hôm nay! Họ đã kiên quyết “giã từ vũ khí” khi thứ vũ khí đó quay lại hại mình!

Số là hầu hết những gì chúng tôi có trong hành trang âm nhạc chỉ là những cái mà nhà trường, sách vở, phim ảnh Pháp, Mỹ, đĩa hát 78 vòng/phút, thậm chí cả nhà thờ Công Giáo, nhà thờ Tin Lành trang bị cho! Thời ấy ảnh hưởng của đài phát thanh, truyền hình đâu đã có. Còn nội dung thì đâu biết cái gì là “âm nhạc đế quốc”, cái gì là “âm nhạc cách mạng”? Thấy Marché Persan, Beau Danube Bleu, Calife de Bagdad... hay là tập, là “vác” ra đánh cho anh em, đồng bào nghe để mua vui không mất tiền và vui cho chính mình. Thế thôi! Vậy mà, không ít kẻ đã ghép chúng tôi vào tội “tuyên truyền văn hóa đế quốc” “đi theo giai cấp vô sản mà còn sặc mùi tiểu tư sản”!

May thay, cũng không ít người có chức có quyền lúc ấy, cụ thể là ban giám đốc Trường Quân Chính Nguyễn Huệ gồm các ông Dương Chính, Võ An Khang lại dám bảo lãnh để ban nhạc chúng tôi “sống được”. Chính các ông, cùng hai sĩ quan quân đội Pháp trong ban giám hiệu lúc bấy giờ –– ông Hai Giá và ông Hai Trí –– đã trả giá cho sự hiểu biết đúng đắn của mình. Nghe đâu, sau khi bất mãn, trở về thành, hai ông đã bị người Pháp sát hại. Còn ông Dương Chính thì tới những năm 70, khi đi công tác tại Hải Phòng, tôi gặp lại ông trên cương vị một ông già bán chè chén trên hè đường Trần Phú! Gặp tôi, ông bắt tay vồn vã và tung ngay một câu tiếng Tây: “Félicitations! Que Dieu te bénisse! – Chúc mừng! Chúa phù hộ cho mày!” Ông còn bộc lộ: “Chúa không phù hộ tao nên tao không tồn tại, còn mày sặc máu “tạch tạch sè” thế mà vẫn sống, vẫn có tên trên báo, trên đài chẳng phải là Chúa phù hộ hay sao!” Chuyện trò với ông cả một đêm mới biết, ông đã bị khai trừ khỏi Đảng, suýt mất mạng vì bị đấu tố, phải nhận tội “mất lập trường nghiêm trọng”, “mất cảnh giác chính trị”, thậm chí còn bị tra hỏi vì sao chui được vào Đảng từ lúc cách mạng chưa thành công? Tất cả chỉ vì ông là một trí thức, một cậu tú đeo kính trắng mà lại đứng trong hàng ngũ nông dân mặc áo lính! Hơn nữa, ông lại chỉ huy và quyết định số phận của họ thì họ quyết không thể chấp nhận! Không ít người như ông Chính chẳng những bị khai trừ khỏi Đảng mà còn bị khai trừ luôn khỏi mặt đất!

Ngay từ thời đấu tranh giảm tô giảm tức năm 1953, không biết bao nhiêu cán bộ kỳ cựu đã là nạn nhân của làn sóng nông dân chủ nghĩa vô nhân tính, vô luân lý và cả vô chính phủ, đã đẩy không biết bao con người thiết tha yêu đất nước tới con đường không lối thoát. Và họ đã phải tìm cách TRỞ VỀ thậm chí TRỞ CỜ, “chống Cộng đến cùng”. Có thể kể hàng loạt tên trong giới văn nghệ như Đoàn Phú Tứ ([15]), Doãn Quốc Sĩ ([16]), Nguyễn Mạnh Côn ([17])... và những tên tuổi sống dở chết dở vì các vụ đàn áp liên tục những cái đầu không chịu cúi, những bộ óc luôn hoạt động, đặc biệt là những lời lẽ đanh thép luôn quá đúng, quá phải, khiến kẻ cầm quyền vô học phải sợ phát điên phát khùng mà cho họ vào tù, giết dần giết mòn hoặc khoác cho những tội phản quốc, Việt gian chẳng cần đưa ra tòa xét xử. Một số, sau này được “lẳng lặng phục hồi” không kèn không trống, không văn bản, không xin lỗi... như nhà triết học Trần Đức Thảo ([18]), luật sư Nguyễn Mạnh Tường ([19]), Nguyễn Hữu Đang ([20]), Hữu Loan, Trần Dần, Lê Đạt, Phùng Quán, Hoàng Cầm ([21])... Tất cả, họ đều không có sức chịu đựng những áp đặt vô lý của nhóm người vô học, hãnh tiến và tàn bạo. Trừ một số “bye, bye” cách mạng, số còn lại, hoặc chuyển nghề hoặc bị đi “cải tạo” hoặc “im lặng chờ thời”! Tôi thuộc nhóm thực sự cải tạo...vờ. Nghĩa là vờ giã từ tất cả Nụ Cười Sơn Cước, Đứt Dây Đàn, Chán Chường... để toàn tâm, toàn ý phục vụ cách mạng. Kết quả là năm 1949, tôi được kết nạp vào Đảng với thành tích cực kỳ hiếm: sáng tác cả trăm bài hát phục vụ các phong trào học tập và chiến đấu của quân đội.

Có thể nói ít có nhạc sĩ quân đội nào viết nhiều và viết đủ thứ như tôi từ Tổ Tam Tam, Tiểu Đoàn Tấn Công, Bài Ca Của Tổ Bộc Phá đến Tuần Lễ Tân Binh, Tuần Nhanh Chóng, Tiếng Kèn Báo Động, Tổng Kết Tân Binh... Tất cả đều thành bài hát, y như những khẩu hiệu mà tay Lê Bạt phụ trách “cờ, đèn, kèn, trống” (tuyên giáo) sáng tạo ra những khi Đảng yêu cầu! Tới nay, ngồi nghĩ lại thấy khôi hài cho cái “thành tích có mà không” ấy. Có còn ai nhắc đến nó? Chính tôi cũng không hề nhận đó là “sáng tác” trong bản thống kê thành tích vào mỗi lần “xét khen thưởng” như không ít nhạc sĩ đã kể là 500, thậm chí cả ngàn “tác phẩm” của mình! Lịch sử chẳng còn ghi nhận nó mà mình cứ thống kê thì không đáng tức cười sao? 5 tấm huân chương, hàng loạt bằng khen thưởng, kể cả giải nhất, giải A, B lẫn “Giải Thưởng Nhà Nước”, vì những tác phẩm không ai biết và chẳng ai muốn biết, muốn dựng lại, mang theo cả những tấn bi hài kịch kéo dài. Nó giải thích khá đầy đủ lý do tồn tại của tôi suốt cuộc đời đi theo Cách Mạng, vào Đảng rất sớm nhưng chẳng bao giờ được sống cho mình, sống vì mình, được nói cái mình muốn nói. Tất cả là nói cái gì “trên” bảo nói, nói cái gì mình không hề có trong trái tim, khối óc của chính mình!

Tóm lại, tôi đã từng là một cây bút đắc lực của Đảng một thời gian dài, chấp hành nghiêm chỉnh mọi nghị quyết “văn nghệ phục vụ công nông binh” đến mức toàn thiện, được cấp trên ưu ái, chiều chuộng hết mực. Cứ cái đà ấy mà tiến có lẽ bây giờ tôi đã về hưu với quyền lợi ít nhất phải như ông Trần Hoàn ([22]) và tất nhiên hơn hẳn các chú Trung Kiên, Nguyễn Khoa Điềm ([23])! Nhưng tiếc thay, hay may thay, tôi đã không hoàn thành vai tuồng lãnh đạo trong “tấn trò đời” kéo dài. Tôi đã sớm trở lại Tôi, cái tên Tô Đình Hải, nhắm mắt chào đời, nhe răng cất ba tiếng cười chứ không chịu khóc!

Câu chuyện làm văn nghệ trong quân đội của tôi là cả một cuộc đời đau khổ đầy oan trái, bất công, đầy những đấu đá để kiếm thêm “sao”, thêm “vạch” mà –– lạy trời có mắt! –– hầu hết những kẻ muốn dìm tôi xuống đất đen nay đã lần lượt chết cả, hầu hết đều chết bất đắc kỳ tử! Thực ra cũng sót lại vài tên vẫn phởn phơ không biết ngượng, tận hưởng cái “có được” nhờ... vô tài nhưng lắm mưu mô, ác độc! Thỉnh thoảng còn có vài tên “ra cái đều” thông cảm với sự “thua em kém chị” của tôi mà thúc giục tôi gặp chú này, chú nọ –– vì bọn lãnh đạo cao nhất hiện nay chỉ ở tuổi con cháu chúng tôi –– để trình bày, để đòi lại đảng tịch, để xin tiêu chuẩn cấp đất, cấp nhà như tiêu chuẩn của một “cán bộ tiền khởi nghĩa”! Nhưng tôi đâu còn dại như thuở mười tám, đôi mươi. Tôi đâu có vì miếng ăn hơn người mà khom lưng quỳ gối trước bọn lưu manh đang nắm quyền “cho và không cho”, “giết và để sống”, “bắt hoặc thả” ở mọi cơ quan Nhà Nước từ trung ương tới địa phương.

Đối với tôi, mọi thứ khen thưởng, danh hiệu từ lâu chỉ là trò “mị dân miễn phí” nếu không muốn nói là thứ hành động, chính sách gây chia rẽ. Bởi giới văn nghệ mà đoàn kết là cái đáng sợ nhất cho lũ chức sắc. Chỉ một nhiệm kỳ, bằng cái lá phiếu ba vạ, là một ông tổng, bà phó được “chia” ngay lập tức nào ô tô, nhà lầu, quyền lợi, hộ chiếu thường xuyên đi nước ngoài! Vậy thì vạ gì không kết nạp một ông trung ương, một ông đại tá, thậm chí cả một anh quản lý khách sạn, một anh nhà báo chuyên viết bài tô hồng chế độ vào cái bộ máy mang tiếng là nghề nghiệp nhưng sự thật chỉ là một tổ chức làm theo yêu cầu của Đảng trực tiếp là mấy chú ở ban Văn Hóa Tư Tưởng mà không có cả hai thứ ấy trong đầu. Làm gì còn tư tưởng khi bộ óc là cả một cục... cứt thối hoắc của những thứ lý luận ba lăng nhăng đã từ lâu bị vứt vào sọt rác của lịch sử. Những cái gọi là hội văn học nghệ thuật (mà tôi có thẻ hội viên tới... 3 hội) sự thật chỉ là nơi ẩn chứa những mưu mô nô lệ hóa giới làm nghệ thuật.

Sau 30-4-1975, các tổ chức văn nghệ càng phát triển ồ ạt. Hội Nghệ Sĩ Sân Khấu có gần...10.000 hội viên, Hội Nhạc Sĩ Việt Nam có tới 1.000 nhạc sĩ! Cái thứ tổ chức ba vạ đó càng phát triển lại càng trở thành... vô tổ chức!

Riêng về khối biểu diễn thì hằng hà sa số nghệ sĩ nhân dân, nghệ sĩ ưu tú, siêu sao, danh hài, quái kiệt… xuất hiện ngày một đông đúc. Trong số đó ta gặp đủ loại người, đảng viên, công chức, thương gia, cò mồi, kẻ trung kiên với chế độ có, kẻ một thời chống cộng hăng hái cũng có… Tất cả đều được các “quan văn nghệ” thời đổi mới nay đề nghị xét tặng danh hiệu này, mai ban phát học vị kia. Để làm gì? Để kiếm chác phiếu bầu, để được ngồi lâu ở ghế chánh, phó tổng, chấp hành chấp tỏi các hội to. Biết đâu lại chẳng được một căn hộ chung khu với ông chủ tịch Nhà Nước Trần Đức Lương như các ông nhạc trưởng Dương Ngọc Đức, Trọng Bằng ([24]).

Thế là loạn xà ngầu kèn cựa, bôi xấu, loạn xà ngầu khen thưởng, phong tặng! Giả, chân lẫn lộn, đánh nhau dài dài chỉ vì quyền và lợi. Còn thực trạng của nền văn học nghệ thuật thì suốt năm này qua năm khác đều là “có nhiều thành tích nhưng chưa có tác phẩm xứng đáng với tầm thời đại!” Ông Đảng và ông Nhà Nước không phải không thấy đã móc túi chi quá nhiều cho bọn văn nghệ văn nghẽo mà mãi chẳng thấy sản xuất được mấy tác phẩm bốc thơm mình cho thật thơm như mình mong muốn! Người được “đầu tư sáng tác” thì trả nợ bằng những tác phẩm chẳng ai buồn nghe, buồn xem, buồn đọc! Người có thật tài, muốn làm “một cái gì đó” để khẳng định mình thì ngày càng nản, nhất là sau các vụ bị công an văn nghệ “đánh” một số tác phẩm kha khá sau khi được tổng bí thư Nguyễn Văn...Lui mạnh miệng động viên: “Không bẻ cong ngòi bút?” Một số, nhờ có điều kiện kinh tế do vợ con hoặc “kiều bào yêu nước” tiếp sức bằng đô la... đã và đang phục xuống sáng tác để… chết rồi may ra được ra mắt hậu thế. Một số những cây bút trẻ thì vùng lên đáp ứng yêu cầu của lớp trẻ thành thị đang dựa vào nền kinh tế thị trường –– nhưng tự cắt đi cái đuôi xã hội chủ nghĩa –– để cho ra đời những quái thai sáng tác đầu Mỹ mình Hàn! Đặc biệt trong âm nhạc, người ta nhập đủ thứ vô văn hóa âm nhạc nhất, quậy phá nhất ở các nước “kẻ thù xưa” như Rock ico-noclaste, Gangsta Rap”... Họ đâu có ngại mấy ông lãnh đạo văn nghệ, mấy ông Văn Hóa Tư Tưởng vì mấy ông có biết gì đến Internet mà tìm hiểu chúng là cái giống gì!

Riêng tôi, sau khi từ bỏ được mọi ràng buộc với cơ quan của Đảng, trở về với đồng lương vừa đủ ăn sáng, tôi cũng gắng viết vài tác phẩm không lời để chẳng kẻ nào có thể phê phán nốt Si là vô sản, nốt Đô, nốt La là phi vô sản như Concerto Buồn, Vui Và Khát Vọng cho đàn bầu và giao hưởng, như Sonate cho violon piano, Hoài Niệm Lúc Hoàng Hôn, những năm còn U70. Buồn thay, cho tới nay nhạc của tôi vẫn chỉ nằm trên giấy!

Tôi chẳng bao giờ được nghe thấy chúng thành âm thanh cụ thể vì chỉ mấy ông chức sắc mới có quyền được dàn dựng ở các nhà hát do chính các ông làm chánh, phó giám đốc mà thôi. Tôi đành xếp chúng vào ngăn tủ cùng với hàng loạt tổng phổ và gắn cái bảng các-tông có đề một câu “Ci-git mon dernier et inutile effort artistique - Nơi đây yên nghỉ một cố gắng nghệ thuật vô ích cuối cùng của tôi.”

Tiếc là hôm Trần Danh từ Hà Nội vào làm phim tài liệu “Tô Hải, Người Chiến Sĩ - Nhạc Sĩ” đã yêu cầu tôi lật xấp tấm bảng và tôi lại nhượng bộ để phim có thể “thoát” được! Tuy nhiên trường đoạn máy lia qua các bản tổng phổ nằm la liệt trên nền nhà thì được thông qua không bị cắt hình nào kèm theo lời bình “Cả thước tổng phổ cứ nằm đó năm này qua năm khác mà chẳng ai, chẳng bao giờ được dàn dựng cả” vẫn được giữ nguyên! Phim chỉ chiếu đúng một lần trên Tivi nhưng đã gây được tiếng vang đặc biệt trong giới đồng nghiệp cùng trang lứa. Có bạn vừa gọi điện cho tôi vừa khóc vì thương tôi (hay thương cho chính mình?) đã bị đời bỏ quên, bạc đãi... Dù ốm đau, què quặt, thiếu thốn đủ đường, ở một nơi khỉ ho cò gáy, sống nhờ vợ bán bánh mì đầu đường mà vẫn can đảm làm “âm nhạc đích thực” lúc sắp sửa từ giã cuộc đời.

Bộ phim này tôi lưu được trong VCD và đã có dịp gửi tặng bạn bè, họ hàng ở nước ngoài.

Kể từ ngày xuân năm đó, niềm vui trở lại với tôi vì tôi đã tìm ra cách sống và quyết phải sống để làm một việc gì đó dù chỉ có chút lợi cỏn con cho đời. Tôi tự an ủi: Dù sao thì mình còn may hơn nhiều so với những những Trần Dần, Phùng Quán.., những Ích, Tâm, Hùng, Khuê.., những người đã chết vì cái ngu của chính mình.

Tôi may mắn còn sống sót đến hôm nay để thay những trang tổng phổ bằng những dòng hồi ký về cuộc đời làm “văn nghệ sĩ bất đắc dĩ” dưới một thể chế biến tất cả thành nô lệ, biến lũ chúng tôi thành những tên bồi bút hèn kém suốt cả cuộc đời...



([1]) Vũ Hoàng Chương (5.5.1916 – 6.9.1976), nhà thơ nổi tiếng

([2]) Nữ diễn viên điện ảnh Nhật (1920), nổi tiếng đến thập niên 1960.

([3]) Hai nhà điện ảnh ở miền Bắc Việt Nam về sau này.

([4]) Bỏ kháng chiến vào vùng Pháp chiếm. (Tiếng Pháp entrer = vào).

([5]) Đã đăng trên SGGP ngày 22 tháng 12 năm 1996

([6]) Việt Lang, tên thật Lê Quý Hiệp (1926-2008) tác giả của những ca khúc được quần chúng hâm mộ trong kháng chiến chống Pháp Tình Quê Hương, Đoàn Quân Đi…

([7]) Đoàn Chuẩn (1924-2001), nhạc sĩ với các ca khúc Gửi Gió Cho Mây Ngàn Bay, Lá Đổ Muôn Chiều, Thu Quyến Rũ, Đường Về Việt Bắc

([8]) Hoàng Giác (1924) nhạc sĩ nổi tiếng với những ca khúc Ngày Về, Hương Lúa Đồng Quê, Mơ Hoa…

([9]) Tô Vũ, tên thật Hoàng Phú (1923) được thính giả hâm mộ với Tạ từ, Em đến thăm anh một chiều mưa.

([10]) Hữu Loan (1916), nhà thơ nổi tiếng với bài thơ Màu Tím Hoa Sim trong kháng chiến chống Pháp, và cũng nổi tiếng vì đã “treo ấn từ quan” thập niên 1960 thế kỷ trước khi ĐCSVN đàn áp các văn nghệ sĩ lên tiếng đòi tự do tư tưởng và tự do ngôn luận.

([11]) Quang Dũng, tên thật Bùi Đình Diệm (1921-1988), nhà thơ, tác giả các bài thơ nổi tiếng như Tây Tiến, Đôi Mắt Người Sơn Tây, Đôi Bờ…

([12]) Đợt Pháp gây hấn tháng 11.46 chứ chưa phải ngày 19.12.1946, ngày toàn quốc kháng chiến (Tác giả chú thích).

([13]) Các diễn viên Mỹ nổi tiếng từ thời phim câm tới thập niên 1940.

([14]) Hoàng Minh Thảo (1921-2008), sau là thượng tướng và nhà lý luận quân sự.

([15]) Đoàn Phú Tứ (1910-1989), nhà soạn kịch, nhà thơ, dịch giả.

([16]) Doãn Quốc Sỹ (1923), nhà văn miền Nam Việt Nam.

([17]) Nguyễn Mạnh Côn, nhà văn miền Nam Việt Nam.

([18]) Trần Đức Thảo (1917-1993), nhà triết học duy nhất ở Việt Nam thời cận đại theo nhận định của Trần Văn Giàu.

([19]) Nguyễn Mạnh Tường (1909-1997), luật sư, nhà thông thái nổi tiếng, bị trấn áp trong thời kỳ có nhóm Nhân Văn-Giai Phẩm.

([20]) Nguyễn Hữu Đang (1913-2007) nhà báo, một trong những người sáng lập nên Hội Truyền Bá Quốc Ngữ, thứ trưởng Bộ Thanh Niên trong chính phủ lâm thời VNDCCH (1945).

([21]) Hoàng Cầm (1922), nhà thơ nổi tiếng với các tác phẩm Hận Nam Quan, Kiều Loan, Bên Kia Sông Đuống, Lá Diêu Bông…, bị trù dập nhiều năm vì “tội” ở trong nhóm Nhân Văn-Giai Phẩm.

([22]) Trần Hoàn (1928-2003), tác giả của nhiều ca khúc nổi tiếng như Sơn nữ ca, Lời người ra đi… từng giữ chức bộ trưởng Bộ Văn Hoá.

([23]) Nguyễn Khoa Điềm (1943), từng là uỷ viên Bộ Chính Trị, trưởng ban Tư Tưởng Văn Hóa T.Ư, khoá 9, bộ trưởng Văn Hoá Thông Tin.

([24]) Trọng Bằng, nhạc sĩ, tốt nghiệp Học Viện Âm Nhạc Chaikovsky (Moskva), nguyên chủ tịch Hội Nhạc Sĩ Việt Nam. Năm 2006, bị nhạc sĩ Vĩnh Cát, Nguyễn Đức Toàn, Doãn Nho, Huy Thục tố cáo đạo nhạc của nhạc sĩ Shostkovich trong bản Chào Mừng (một nhạc trưởng Nhật khẳng định chuyện này). Dù được một số nhạc sĩ phản bác, Trọng Bằng đã xin rút tên khỏi danh sách ứng viên “giải thưởng Hồ Chí Minh”.



No comments: