Chương
3
Nhiệm vụ khó khăn
S
|
áng hôm sau, dù là ngày dọn dẹp
lau chùi nhà cửa, mẹ vẫn bắt tay vào việc. Cái nồi nấu nước cũ được đưa qua nhà
Barshinskeys, hai tấm trải giường cũ nhưng đã được sửa lại đẹp đẽ, chiếc ghế dựa
của bà ngoại để lại, hai cái giường xếp dùng đi chơi cắm trại và hai tấm chăn nâu,
một bao khoai tây, một cây bắp cải bự bố
mới cắt từ ngoài vườn rau vào.
Khi Daisy May và tôi trở về
nhà từ trường học vào giờ ăn trưa, bà mẹ
cô bé đã
bước ra khỏi giường, gọn gàng trong bộ đồ mùa hè của mẹ và đang xếp chén
đĩa lên bàn ăn mà tôi nhận ra chúng từ ở
trong nhà kho của chúng tôi. Chùi rửa sạch
sẽ, lại được che chắn với một mảnh màn cũ, nó mang lại cho cái bếp của căn nhà
‘tổ cú’ một quang cảnh lạ mắt: trông tương tự như (nhà bếp) của gia đình chúng
tôi.
Đôi khi tôi nghĩ có lẽ vì sự nhàm chán làm mẹ hay nóng giận, chứ
không hẳn chỉ vì vất vả trong công việc. Chán nản về sự nặng nhọc làm cho người
mụ ra hơn là ham thích. Chắc chắn trong ngày thứ Hai đó, dù phải làm thêm
biết bao công việc, mẹ lại thấy vui vẻ và phấn khích, đầy những toan tính trong đầu bà để giúp sắp xếp lại cuộc sống cho gia đình Barshinskeys.
Bà Barshinskey là người dễ xúc
cảm, bị chinh phục nhanh chóng với lòng biết ơn , bà trở nên một bản sao nhạt
nhoà lợt lạt của chính mẹ tôi, cả với những việc nhỏ nhặt như thay giường nệm vào
những ngày thứ Sáu. Có điều nó chỉ hữu hiệu khi có mẹ ở đó chống chỏi đốc thúc bà.
Cuộc chiến đấu kế tiếp của
mẹ là Galina. Ở đây, nhiệm vụ của mẹ khó
khăn phức tạp hơn nhiều, bởi dễ dàng có thể nhận ra là trong làng chẳng có ai muốn thuê mướn cô ta .
Tin về gia đình Barshinskeys
nhanh chóng truyền thổi khắp thị trấn, lúc đầu trong đám dân giả, rồi cũng đến
tai các gia đình quý tộc. Mọi việc ra vẻ tốt đẹp cho ông Hayward trong việc chấp
nhận hên xui may rủi với (việc thuê mướn)người thợ nuôi bò sữa mới . Đó là chuyện
của riêng ông. Nhưng ai muốn có một cô gái
như Galina vào làm việc trong nhà họ? Lại càng phiền phức hơn với sự kiện là chính cô gái cũng
chẳng có ý muốn đi làm việc. Mẹ tôi đã gọi cô sang nhà và mặt đối mặt cho cô một ‘buổi lên lớp‘ về cách sống . Cô gái ngồi trên bàn ăn trong nhà tôi, đôi mắt mèo cúi đầu
xuống nhìn áo quần và tự tạo cho mình một dáng điệu trông vừa có vẻ đoan trang
lại vừa xấc láo.
- Tôi sẽ đi gặp bà Hayward để hỏi xin việc cho cô. - Mẹ lạnh lùng nói.
- Đó là điều tốt nhất tôi còn
có thể giúp trong lúc này. Dĩ nhiên làm ở
đây không bằng những nơi danh giá khác,
nhưng không ai chịu cho cô một công việc. Dù sao bà Hayward cũng là một tín đồ rất
ngoan đạo, bà sẽ trả công cô xứng đáng nếu cô làm việc chăm chỉ và biết giữ mồm giữ miệng.
Cô gái đỏ mặt lên và bỗng
nhiên trông có vẻ sợ hãi.
- Tôi không hợp với đàn bà. Họ
không ưa tôi. – Cô gái nói. Giọng nói cô
nghe thật lạ tai. Cả Ivan và Daisy May có giọng nói gần giống như chúng tôi, nhưng
giọng nói của Galina là một pha trộn giữa giọng miền Kent và ông
bố của cô. Và cũng chỉ có cô là đứa duy nhất trong ba đứa con nói tiếng Nga với
bố. Khi ông bố nói với Ivan và Daisy May bằng tiếng nước ông, chúng rõ ràng hiểu,
nhưng lại trả lời bằng tiếng Anh. Riêng Galina
đối đáp bằng tiếng Nga, đôi khi họ nói với nhau thật lâu, ngay cả trước
mặt những người khác. Mẹ bảo điều đó thật thô lỗ bất lịch sự.
- Này, cô gái, tôi e rằng cô sẽ phải vui vẻ mà hoà hợp với đàn
bà vì chính họ là người coi sóc mọi việc trong nhà. Nếu cô muốn có một việc làm
cô phải nghe lời họ.
- Tôi không
nghĩ là tôi cần một công việc.
Mẹ ráng kiềm chế nhưng khuôn mặt đã có sắc giận.
- Vậy thì cô nghĩ cô sẽ làm gì? Tiếp tục sống nhờ
bố nhờ mẹ? Thứ con gái một đống như cô đáng
lẽ phải kiếm chút tiền phụ giúp vào gia đình, chứ ai lại lang thang lêu lổng suốt ngày như loại dân phiêu bạt giang hồ thế!
Gương mặt Galina vụt trắng
bệch ra, rồi đổi sang đỏ rực. Cô gái ngước lên nhìn mẹ với đôi mắt bừng lên sự
giận dữ.
- Không được gọi tôi là “thứ này đống nọ”. – Cô nhổ toẹt xuống đất
và xô ghế đứng dậy bước ra khỏi bàn. Tuy nhiên, cô đã không đoán trước được mẹ
tôi cũng là một người rất nóng giận, và hơn nữa , bà lại đã có nhiều kinh nghiệm
biết cách dùng nó làm ưu thế của bà. Mẹ xô cô ngược trở lại ghế khá mạnh tay.
- Cô chỉ được phép đứng lên khi nào tôi đã nói
xong, chưa xong thì ngồi yên. Mẹ cô đã
nhờ tôi làm bất cứ gì mà tôi có thể làm
cho cô. Và tôi sẽ làm được điều đó.
- Hai bố con tôi , chúng tôi
có thể tự lo được. - Cô gái buồn bã trở
lại, cơn giận dữ tới thật nhanh, cũng tan biến nhanh. - Chúng tôi
không muốn ai can thiệp vào. Chúng tôi tự lo được rồi.
- Được thôi, nếu đó là cái cô
muốn. Nhưng cho cô biết, tôi sẽ không gửi
thực phẩm sang cho cô nữa. Cô có thể ra rừng hái dâu dại mà ăn trừ bữa như bọn ăn xin. Và đừng có qua nhà
xin xà bông để gội đầu. Và rồi cô sẽ thối tha như họ, trông giống như họ. Nếu cô
muốn ăn mặc dơ dáy bẩn thỉu, với tôi được thôi. Nhưng đừng xen vào chung chạ với những người khác. Đi vào rừng mà
sống như một thứ điên khùng nếu cô muốn.
Nhưng tôi sẽ không để cho cô trà trộn vào
những con người đứng đắn trong xã hội.
Cảm giác nghi ngại và không
an toàn thoáng qua gương mặt cô gái. Một phần trong cô muốn gạt bỏ sự giúp đỡ của
mẹ qua một bên, phần khác cô còn quá trẻ và không chắc có thể tự sinh sống với khả năng của mình không. Chắc là
không thể nào với những người như mẹ tôi ở chung quanh. Và cái hình ảnh mà mẹ vừa
vẽ ra: một kẻ lang thang không nhà ,dơ dáy thúi tha không phải là cái cô muốn.
Tính ngạo mạn của cô bị khuất phục. Thật là kinh ngạc khi thấy
cô rơi lệ và sụm một đống xuống bàn. Trong giây lát, tôi tưởng cô giả bộ, nhưng không, những giọt nước mắt thực sự lăn từ từ
xuống má rơi xuống mặt bàn. Mẹ có vẻ bất nhẫn. Bà nhìn đăm đăm một hồi, rõ ràng bà cũng đã
nghĩ như tôi rằng cô gái đang đóng kịch, và rồi bà lên tiếng bằng một giọng bớt
cay nghiệt hơn:
- Nghe đây, khóc chẳng ích lợi
gì. Sự lựa chọn thuộc về cô. Hoặc là cứ
tự tiện ra đi và vào sống hoang dại trong rừng như bố cô, hoặc bắt đầu tự chỉnh
đốn mình và đi kiếm việc.
- Nếu đi làm, tôi cần một bộ đồ mới. Không thể đi
ra ngoài ăn mặc thế này.
- Cô sẽ được lo liệu cho đầy
đủ, bất cứ cô đi đâu làm gì. - Mẹ đáp lại thật gãy gọn.
- Nếu tôi đi làm ở nhà
Hayward, tôi có phải ngủ lại không?
Mẹ do dự một lúc:
- Không, tại nhà Hayward có
lẽ không đâu. Tôi cho là họ sẽ để cô đi về mỗi ngày.
Bỗng dưng Galina quay mặt đi.
Cô đưa tay lên vuốt mái tóc dầy bóng bẩy.
Một cử chỉ tự mơn trớn một cách không thích thú gì mấy. Nó phô ra cánh
tay trần với làn da lợt màu kem, đồng thời cô nghiêng đầu qua để đôi mắt cô, vẫn
còn ngấn lệ, trông càng xếch hơn và những vết ẩn dưới gò má trở nên rõ ràng hơn.
- Tôi thích được ở lại,- Cô
mơ màng. - được ngủ ngon, trên một cái giường
lót đầy lông chim êm ái và chăn gối mềm mại để ắp ủ vuốt ve cho cái
tấm thân này.
Mẹ đỏ mặt lên. Cách ăn nói
của Galina thật vô đạo đức.
- Cô không có sự chọn lựa. Nếu
tôi có thể đưa cô vào làm trong nhà Hayward, chính họ sẽ quyết định cô sẽ được
ngủ lại hay phải về nhà.
- Vậy được, tôi chấp nhận.
Lại một sự thay đổi thật
mau lẹ. Cô gái bỗng nở nụ cười, thật ngắn gọn và dịu dàng. Cô liếc nhìn lên mẹ dưới cặp lông mi dài bóng
rồi hơi trề môi ra một chút:
- Cám ơn bà Willoughby. – Cô
gái nói với một giọng như mèo kêu. - Tôi
biết những gì bà đã làm cho chúng tôi. Chúng tôi luôn luôn biết ơn.
Cô lại nở một nụ cười ấm áp,
ra vẻ ăn năn, nhưng mẹ rõ ràng không tin. Cả hai người họ có chung mỗi đặc điểm
đó.
Cuối cùng thì bà
Hayward vẫn không nhận cô gái vào làm:
- Tôi rất tiếc thưa bà Willoughby!
Tôi sẵn sàng giúp kẻ đáng thương nếu như tôi có thể. Ý tôi muốn nói về bà mẹ cô ta kìa. Còn với cô gái thì, xin lỗi phải nói
tiếng không. Tôi không thể , vì còn có
Peter ở trong nhà. Thằng con tôi đã mười sáu tuổi và tôi không muốn có bất cứ
phiền phức nào với một đứa con gái có lý
lịch như vậy.
- Bà ấy là một hội viên của Quaker (một giáo phái tôn giáo), thưa bà
Hayward. Bà ấy ở trong hội Thân Hữu tại Dover.
Bà Hayward lắc đầu một cách ý
thức:
- Chúng tôi không nói về bà
mẹ , chắc bà biết rõ. Hoặc nếu nói về cô
con gái nhỏ trong nhà thì lại khác. Trường hợp nếu họ vẫn còn ở quanh đây cho tới khi con bé rời trường. tôi chắc con bé
sẽ rất tốt trong nghề làm sữa. Nhưng với
cô con gái lớn thì không được. Cô ta chính là một tai hoạ.
Nhà Tylers cũng nói không,
các nhà Borers, Sitfords và cả chị em cô gái già không chồng Tunes cũng lắc đầu. Xem ra có vẻ vị trí của cô sẽ là: không nhà máy
làm mứt thì cũng công xưởng muối chua. Nhưng mẹ
đã tự nhận lấy trách nhiệm đấu tranh cho cuộc ‘thánh chiến’ của bà này. Và như thế, đẩy Galina vào lao động
trong nhà máy, vào lúc này, có khác nào bà đẩy một trong chúng tôi, đám con của
chính bà vào đó?
Cuối cùng, bà nói bà sẽ nói
chuyện với ông Hope-Browne khi nào ông tới:
- Giáo hội Anh giáo vẫn luôn
luôn bảo rằng họ sẵn sàng giúp đỡ người anh
em nghèo khổ. Vậy bây giờ là lúc để họ thực hiện điều họ nói.
Chúng tôi có một mối liên
lạc quen biết không đằm thắm lắm với giáo hội Anh Giáo ở trong thị trấn. Giáo phái Anh Em chúng tôi cần họ bởi chúng tôi phải tổ chức lễ cưới trong nhà
thờ của họ và chôn cất người thân qua đời cũng tại nghĩa trang của họ. Phải làm đơn qua
họ để xin cứu trợ và một số việc khác cần
được tổ chức trong sảnh đường nằm trong quyền hạn của cha xứ. Giáo hội Anh Giáo là giáo hội chính thức.
Nhà vua nằm trong giáo hội Anh giáo và hầu hết những gia đình thượng lưu,
bác sĩ , cha xứ và cả các trường học,.
Nhưng họ cũng cần đến chúng tôi, bởi hầu hết tầng lớp
lao động thuộc giáo phái Anh Em. Bố tôi là một thuyết giảng viên. Mẹ có chân trong ban xã hội của hội đồng mục vụ giáo phái Anh Em. Vì vậy,
khi nào có một cậu trai đáng tin tưởng cần
được huấn luyện thành người phụ tá vườn
cây hay một cô gái nết na nào cần nơi sinh sống, thường thường họ đến với chúng
tôi. Một cô gái được giới thiệu bởi gia đình
Willoughbys hầu như chắc chắn là người thành thật, chăm chỉ và hiểu rõ ‘thân thế’ của mình.
Ông Hope- Browne, vị phụ tá
cha xứ, thường là người được cử liên lạc
với chúng tôi. Cha xứ thường ít khi hạ cố đến với chúng tôi. Do đó, mỗi khi cần
dùng sảnh đường cho đám cưới, đám tang, chúng tôi được chỉ dẫn đến gặp ông
Hope- Brown. Ông ta thường đến trường học ba buổi trong một tuần để chủ trì các giờ cầu nguyện,
và vào các dịp lễ Giáng Sinh và Phục Sinh, ông và mẹ sẽ có những cuộc đối thoại lâu để quyết định xem nên cho những
ai nhận lãnh những phần quà tặng Fortescue, từ một quỹ từ
thiện được thành lập bởi vị dân biểu
Simon Fortescue năm 1856 để giúp người nghèo trong giáo xứ bất kể nguồn gốc tôn
giáo, điều kiện xã hội hay giới tính.
Tôi luôn luôn cảm thấy tội
nghiệp cho ông Hope-Browne, và hầu như ai cũng thế. Ông còn trẻ và có tính mắc
cở. Đặc biệt là ông có khuôn mặt đầy mụn trông ghê gớm đến nỗi từ trước và sau này, tôi chưa
từng thấy ai như vậy. Càng tệ hơn với mái tóc bạch kim và làn da trắng của ông . Từng
đốm đỏ, từng mụt nhọt bóng lên đủ loại màu sắc từ hồng lạt đến tím xẫm. Và khi ông
đỏ mặt, cái đỏ mặt cũng thật ghê, bởi nó
làm thay đổi màu sắc những mụn nhọt trên
gương mặt ông.
Có một cái dễ thương đó là
giọng nói của ông. Ông có một giọng nói tenor trầm tuyệt vời, không giống chúng
tôi cũng chẳng giống ông cha xứ hay ông Fawcett. Hai người này phát âm không hoàn
hảo (Họ nói ‘dà’ thay vì ‘ và’ , ‘ Trúa’ thay vì ‘ Chúa’). Còn ông Hope-Browne ăn
nói thật chỉnh, đúng như ngữ pháp. Anh Peter Hayward bảo tôi là
được nghe ông hát trong một buổi hoà tấu mới tuyệt vời. Khi đó người
nghe sẽ quên hết cái gương mặt đầy mụn của ông.
Tôi được sai đến nhà xứ với
lời nhắn hỏi khi nào thích hợp cho mẹ có thể đến gặp ông Hope-Browne. Chiều hôm
sau , tôi đã thấy ông đang dựa chiếc xe đạp vào
nhà kho vào đúng giờ ăn trưa. Đây cũng là một đặc điểm thú vị về ông: Mặc
dù lúc nào mẹ cũng kính cẩn nói ông có
thể kêu bà đến nhà xứ gặp, nhưng ông cứ đạp
xe đạp đến tận nhà chúng tôi, luôn luôn vào bữa ăn trưa. Rồi ông ngỏ lời xin lỗi và đỏ mặt vì đến không đúng lúc.
Cuối cùng là ông ngồi vào bàn để chất đầy vào bụng nào là bánh mì, bơ , rau cải, cá hồi, cà chua
và đủ thứ bánh ngọt mẹ mang ra mời.
KIểu cách đàm thoại của họ
luôn luôn cùng một phương thức. Mẹ thăm
hỏi về bà Lovelace, bà vợ của ông cha xứ.
Mẹ cảm thấy bà có lý do thăm hỏi vì bà đã từng phục dịch ăn tối cho bà Lovelace trong những ngày còn phục
vụ tại Nhà Trắng. Rồi ông Hope-Browne sẽ thăm hỏi về công việc
sản xuất sữa ở trang trại Hayward thế nào, còn bố thì hỏi sức khoẻ của ông
cha xứ ra sao…Đoạn họ bàn về những người nghèo đã đưọc lãnh nhận những thùng đồ
cứu tế Fortescue, về nhà vua và về bất cứ gì khác có vẻ tốt lành và chẳng có chủ
đề gì cả.
Mới đây, tôi nhận thấy có một
sự thay đổi trong bầu khí chung quanh khi ông Hope-Brown ghé qua nhà, nguyên do
từ chính chị Lillian. Chị không trực tiếp tham gia buổi nói chuyện, bởi là trẻ
con , chúng tôi phải im lặng lắng nghe
(người lớn nói chuyện) và chỉ được trả lời ngắn gọn: cám ơn, xin vui lòng… Tuy
nhiên, chị đã cố ý biểu lộ sự hiện diện của mình bằng những cách khác, dường như
để loan báo rằng chị đang chuẩn bị đi vào thế giới của người lớn.
Vào cái buổi trưa đặc biệt
này, chị chuyền tay qua ông khách một đĩa bánh ngọt với câu:
- Mời ông ăn thử một một miếng
bánh, ông Hope-Browne. Bánh hôm nay thật ngon.
Tôi chờ cho mẹ ngăn cô lại,
vì thường chỉ có mẹ lo việc mời ăn bánh,
nhưng rồi đã không xảy ra chuyện gì. Mẹ
lại còn dịu dàng mỉm cười với chị. Ông
Hope-Browne thì đỏ mặt và lấy một miếng bánh. Chị Lillian đặt đĩa bánh xuống bàn với một thoáng rung động trên đôi mi.
Tôi không thể tin vào mắt
mình. Không lẽ Lillian phải lòng ông này? Một sự phẫn nộ bùng lên trong tôi.
Sao chị đựoc quyền chọn lựa bánh trong
khi tôi phải chờ được phép? Sao chị dám rung động với một người thuộc giáo hội
Anh Giáo trong khi chúng tôi thuộc giáo phái Anh Em? Tôi nhìn chị rồi lại nhìn ông Hope-Browne. Ông
ta dường như không để ý tới cái chớp mắt rung động ấy vì ông còn đang thật bận rộn với miếng bánh ngọt thơm ngon, nhưng
Lillian cố nặn ra một nụ cười với ông như
một con thỏ ngu đần. Chắc chị không thực tình thích ông ta phải không? Tôi nhìn
chăm chú vào gương mặt ông Hope-Browne và tự hỏi điều gì sẽ xảy ra nếu phải cưới
bộ mặt kinh khủng đó làm chồng. Và tôi
nghĩ đó chính là cái ý nghĩa của lời thề trung thành “ Trong hạnh phúc cũng như trong đau khổ, khi
tốt lành cũng như khi tệ hại…” ở tại nghi thức hôn nhân. Ông ta bỗng linh cảm tôi đang nhìn ông, bèn ngước nhìn lên
và trở nên lúng túng với những lời lẽ lắp bắp cho đến cuối bữa ăn. Tôi nghĩ ông
hiểu vì sao tôi nhìn ông.
- ,Ông Hope –Browne! Dĩ nhiên là ông đã có nghe nói về một gia đình nghèo
khổ vừa mới dọn tới căn nhà kế bên tôi đây?
Ông ta gật đầu, vẫn chưa có tự tin để thốt ra lờii.
- Tôi đã tận tâm hết sức, thưa
ông , và tôi sẽ thành thật với ông. Tôi đã
làm hết sức mình để giúp những kẻ đáng thương đó. Điều chắc chắn là điều kiện
sinh hoạt tồi tệ của họ không phải do lỗi
của người đàn bà. Tôi đã làm những gì có thể, và bây giờ, tôi e rằng tôi phải kêu
gọi những người khác phụ giúp một tay.
Mẹ nói với giọng điệu rất
oai phong và hoàn toàn đúng đắn ấy làm tôi
thật bực mình vì điều bà vừa nói hàm ý rằng:
điều kiện sinh hoạt
tồi tệ của họ là do lỗi của ông Barshinskey.
- Vâng tôi hiểu. – Ông
Hope-Browne nói.
- Đó là về vấn đề cô gái…- Mẹ nói, rồi bà bỗng nhìn
quanh bàn và thấy chúng tôi. – Edwin! đứng lên đi cho heo ăn đi. Và nếu ông đã
dùng xong bữa, thưa ông Hope-Browne, xin
để cho các cháu dẹp bàn và rửa chén…
Chúng tôi phân tán ra đi làm
phận sự của mình, và dù cửa phòng đã đóng, tôi vẫn nghe được tiếng còn tiếng mất
vẳng ra: “ con nhỏ khó dạy…,kỷ luật…,truyền
thống gia đình ngoan đạo… “.Tôi cũng thỉnh thoảng nghe thấy giọng nói du dương
của ông Hope-Browne đại khái: : không dám
hứa…, tình thế rất khó khăn…, việc do chính bà Lovelace giải quyết…”. Rồi những tiếng ho, tiếng ghế xê dịch trên sàn. Cuối cùng, ông Hope-Browne bước ra kẹp cái cặp
của ông vào cái yên xe và ra về.
- Tội nghiệp anh chàng! - Mẹ
nói thế khi bước vào nhà bếp, và tuy bà chẳng bao giờ nói điều gì làm ông ta đáng
tội nghiệp, chị em tôi dư hiểu bà muốn nói
gì.(Có lẽ với bà nhắc đến cái mặt mụn của
ông thì quả là thô tục?).
Ngày hôm sau, bà Lovelace gửi
qua một lời nhắn. Thế là Galina được nhận vào làm trong nhà xứ. Việc đầu tiên là
cô gái được gọi sang nhà và lôi vào phòng
tắm rửa, cửa được khóa trái với một bình nước nóng cùng mấy lời chỉ dạy tắm rửa cho sạch sẽ.
Tôi tưởng Galina sẽ giận dữ.
Cô là loại người không thích những mệnh
lệnh mà chúng phản ảnh con người của cô không hoàn thiện như cô tưởng. Nhưng lần
này dường như cô không để ý tới. Nhìn vào chiếc khăn tắm trắng tinh, cục xà bông
tẩy trùng và đồ lót sạch sẽ mà mẹ đã chuẩn bị sẵn , cô hỏi một cách sảng khoái:
- Tôi có thể gội đầu luôn chứ?
- Không kịp khô đâu. Nếu muốn,
cô có thể làm ướt phiá trước một chút.
Sau chừng nửa tiếng, Galina
trở ra ngoài với gương mặt sạch sẽ , tóc tai vấn gọn gàng giống như Lillian và phảng
phất mùi xà bông.
- Xà bông này làm mặt tôi hôi quá!
- Khi nào cô làm ra tiền, cô có thể tự sắm xà bông
thơm riêng. - Mẹ vừa nói vừa tròng chiếc áo cũ lên đầu cô kéo xuống cổ, rồi xoay
người cô khá mạnh để cột dây lại sau lưng. Galina vuốt ve những hàng li xếp lớp phẳng phiu trên
chiếc váy đang mặc với nụ cười nhà họ
Barshinskeys quyến rũ tỏa đầy trên gương
mặt.
- Khi có tiền, tôi sẽ sắm một bô đồ bằng satin có viền lông thú. Bố tôi kể rằng ở
nước tôi ai cũng có áo lông thú kể cả
người nghèo. Tôi sẽ mua một cái áo choàng bằng nhung có may liền một cái mũ lông,
và sẽ đi giày chứ không đi ủng .
Cô khinh khỉnh nhìn xuống đôi chân đi ủng của mình. Mặc dù làm đầu tóc
kiểu Lillian và ăn mặc đồ của chị, tôi vẫn thấy cô chẳng giống chị một chút nào.
Mẹ lại xoay người cô thật mạnh lần nữa và chăm chú nhìn vào bộ đồ :
- Chật quá! – Bà nghiêm trang
nói. – Không còn thì giờ để làm gì khác nữa. Nhưng không sao, bà
Lovelace biết tình trạng này mà. Khi bà ấy nhận cô vào nhà xứ, bà sẽ kiếm cho cô
quần áo lao động. Đừng trì vai cô xuống
thì chiếc áo dài sẽ không làm căng chiếc áo cánh bên ngoài quá.
Bà ấn mạnh cái mũ lên đầu cô,
gài vào đó một cây kim, cố kéo giãn chiếc áo đầm Galina mặc về phía trước, mong làm
cho nó lớn hơn rồi bà lướt như bay qua cửa với cô gái đi theo. Đôi chân đi ủng
thật vụng về, cái áo đầm thì quá ngắn, quá chật, thế nhưng trông cô gái lại đáng
chú ý hơn cả Lillian.
Khi họ trở về một giờ sau đó, mẹ cười đắc thắng.
- Bà ấy chịu nhận cô ta rồi, giúp việc
linh tinh trong nhà và nhà bếp Lương mười
hai bảng một năm bao ăn ở. – Quay qua
Galina , bà nói tiếp.- Nên nhớ một phần
tiền công sẽ được gửi về nhà cho bà mẹ đáng thương của cô. Cô sẽ được phát đồng
phục miễn phí. Nên chỉ cần vừa đủ tiền để
sắm giày vớ. Và nhớ phải nghe lời bà
Lovelace và học cách cư xử khi cô ở đó. Bà ấy là một tín đồ rất ngoan đạo.
- Tôi không ưa bà ấy.
Tồi có thể cảm thông với
Galina điều này, Tôi cũng không thích bà ta. Về công việc trong nhà và nhà bếp, tôi biết nó như thế nào. Trong nhà
xứ đã có một người nấu bếp chính và một người đàn bà hàng ngày đến lo việc giặt giũ. Công việc chỉ
có thế, nhưng nhà có đến mười bốn phòng.
Sáng hôm sau khi cô bắt đầu đi làm, tôi lại thấy vui. Bây giờ, tôi có thể
có ông bố của cô cho riêng mình.
(Xem tiếp chương 4)
No comments:
Post a Comment