Trôi
theo mùa hè
Description
“Trôi theo mùa hè”, câu chuyện của hai gia đình với căn nguyên hoàn
toàn khác biệt: cội nguồn, văn hóa, phong tục; mối liên hệ kỳ lạ giữa 2 lối sống,
một gia đình Anh truyền thống và một là
sự pha trộn giữa hai dòng máu Anh - Nga ,
xứ sở lạnh lẽo khổng lồ. Vì sự ngẫu nhiên nào đó, họ bỗng dưng quện lấy
nhau, ràng buộc vào nhau từ một mùa hè định mệnh. Những hoạt cảnh vui buồn lẫn
lộn của hai gia đình qua biến chuyển của thời gian bắt đầu từ những năm đầu của
thế kỷ hai mươi trải dài trong suốt và sau cuộc Cách mạng Bôn sê vích
tại Nga mang đến những hệ luỵ phức tạp. Câu chuyện cũng kéo dài qua khoảng không gian bao la: từ một làng
quê nước Anh nhỏ bé đến những thành phố lớn và thảo nguyên bát
ngát của đất nước khổng lồ Nga được làm nền cho những quan hệ của đám con của
hai nhà từ thời thơ ấu , và theo năm tháng dẫn đến các câu chuyện tình éo le
ngang trái, vừa bi thảm vừa hạnh phúc của họ. Nguyên tác tiếng Anh “The Summer of
the Barshinskeys” của Dianne Pearson, nữ tác giả người Anh, sinh 1931,
hiện đang sinh sống tại London. . Câu
chuyện cho người đọc cảm nhận sự đau khổ,
và sự đổi thay toàn diện bộ mặt thế giới trong thế kỷ 20 do hậu quả của cuộc
cách mạng đầy máu và nước mắt này. Tuy
thế, đây đó vẫn còn tình
yêu, tình người để thế giới chúng
ta còn tồn tại cho đến hôm nay
Contents
Contents
Tác phẩm gồm 30 chương (30 chapters) chia làm 3 phần (3 parts):
- Phần 1: Hồi ký của Sophie về Mùa hè của Barshinskeys: 9 chương (9
chapters).
- Phần 2 : Câu chuyện Edwin và Daisy: 20 chương (20 chapters)
- Phần kết: Trở lại với (hồi ký) Sophie : một chương duy nhất (the
last chapter)
Phần 1
Mùa hè của Barshinskeys
|
Mùa hè kỳ lạ
N
|
gay lần đầu tiên gặp mặt, tôi đã thấy ông Barshinskey thật quái dị.
Lúc ấy ông đang đi qua trang trại của nhà Tylers để tiến vào làng. Cầm một cây
đàn vĩ cầm trên tay, miệng ông ca hát vang trời bằng một ngôn ngữ chúng tôi
không hiểu gì. Trên đầu ,ông đội một cái mũ dạ đen , có một vòng hoa dại quấn quanh vành mũ .
Phía sau lưng, bà vợ đang cặm
cụi đẩy một chiếc xe, trên đó chất đầy một
bộ khung giường, một cái rương gỗ nhỏ và hai cái ghế. Sau chót, ba đứa con, hai
gái một trai, tay xách nách mang một lô những vật dụng linh tinh trong nhà bếp.
Mặc dù câu chuyện của họ
cũng sẽ là chính câu chuyện của gia đình chúng tôi được trải dài qua nhiều năm
tháng, nhưng chính cái mùa hè chói chang của năm 1902 đó đã là cái thời điểm khởi
đầu về mối liên hệ kỳ lạ giữa hai gia
đình, khi mà sự háo hức của tuổi trẻ mong muốn đạt được những ước mơ viễn vông luôn chiếm ngự trong lòng chúng tôi.
Tôi không thực sự hiểu điều
gì đã đưa gia đình Barshinskeys đến với chúng tôi. Càng lạ hơn nữa, vận mệnh
nào đã nối kết chúng tôi với họ. Đó là một gia đình, có nói quá không, chỉ hơn
đám hành khất một chút. Còn gia đình chúng tôi, dù không khá giả gì, cũng có thể
coi như thành phần trung nông, tương đối
có máu mặt . Họ nghèo nàn, rách rưới, sống
đời buông thả phóng túng. Chúng tôi có của
ăn của để, tươm tất, phong cách lễ nghi chững chạc . Đôi khi tôi cho rằng chính
bởi cái mùa hè đặc biệt đó đã tác động cho cả hai gia đình cuốn hút vào nhau.
Nhìn lại quá khứ, nhớ về mọi thứ đã tắm
trong ánh nắng chói chang rực rỡ, và không phải chỉ có bọn trẻ chúng tôi nghĩ
như thế. Tôi đã thăm hỏi những người lớn tuổi về cái mùa hè năm ấy, và ai ai
cũng đồng ý rằng đó là một mùa hè kỳ lạ: những đàn ngỗng trời bay ngang mỗi buổi
chiều, mùa dâu dại có thu hoạch cao thập bội và cỏ khô được dự trữ vào kho sớm
hơn thường lệ đến hai tuần lễ.. Họ nhớ rõ ràng đến từng chi tiết năm tháng, bởi đó là năm nhà
vua Edward đăng quang, cũng là năm kết thúc cuộc chiến với người Boers. Một năm
đặc biệt đến ai cũng ghi nhớ: trái cây
hoa quả thu hoạch kỷ lục, mật ong đầy
tràn, tổ ong đã nhiều mà rượu mạch nha cũng lắm.
Năm đó tôi mười một tuổi.
Điều tôi ghi nhớ nhất lại là những rặng hàng rào choáng ngập một nền hoa trắng
trông như một dải lụa dài vô tận, và khi tôi bước dọc theo chúng đến trường học,
quả là một điều kỳ diệu quá sức tưởng tượng. Mùa hè ấy đã hoàn toàn thu hút tất
cả chúng tôi. Ngày nào cũng có vài hiện tượng lạ, một kỳ thú mới để xem. Nhớ nhất
là vào tháng Năm, một đàn chim én có tới hàng ngàn hàng vạn
con bay lượn lui tới la hét vang
trời. Chúng lộn nhào, sà xuống rồi vụt bay lên. Cuối cùng, khi trời
tối dần lại biến mất về phía chân trời.
Trong làng trước giờ chưa hề
có cảnh tượng xôn xao như vậy. Vì thế,
truớc bữa ăn tối , ba chị em chúng tôi thường
chạy ra cuối vườn, len lỏi qua những bụi hoa hương mộc, những cây sung
xanh lá đến sát hàng rào, nhìn sang phía cánh đồng của gia đình Tylers để ngắm nhìn đàn chim bay
lượn, và thế là, ngay tại đây, chúng tôi đã chứng kiến cảnh gia đình
Barshinskeys đang tiến vào làng.
Anh Edwin và tôi còn thấp
bé nên leo lên ngồi trên những cọc hàng rào phía trước, tay ôm chặt những cọc
rào. Chi Lillian đứng phía sau. Chị cao ráo, trắng trẻo, bàn tay phải của chị vươn ra phía trước chống lên
một đầu cọc. Phải công nhận chị có đôi bàn tay đẹp. Đã có lần tôi tình cờ nghe
mẹ nói với bà King rằng Lillian thừa hưởng
đôi bàn tay đẹp từ bà ngoại Cobham của tôi. Có lẽ Lillian cũng nghe thấy,
vì từ hôm đó, tôi nhận thấy chị luôn tìm cách khoe đôi bàn tay của mình khi có
dịp. Công bằng mà nói, chúng vừa thon dài vừa mềm mại, lại có những móng tay hồng
hồng xinh xắn tròn trịa, bàn tay chị đẹp thật. Còn tôi, trái lại, bàn tay vừa
ngắn ngủi vừa cục mịch, móng tay còn bị cắn trụi lủi trông thật thảm hại. Tay
tôi giống hệt tay ông nội, tuy tôi không thể trách ông về chuyện hay cắn móng
tay. Mỗi khi thấy Lillian đưa đôi bàn tay của chị lên, tôi lại tự hứa sẽ không
cắn móng tay nữa, nhưng thật khó chừa vì đã thành tật. Càng khó hơn nữa vào cái
mùa hè năm ấy, những giàn hoa trắng, đàn chim én bay lượn trên không càng dễ
làm tôi mơ mộng.
Buổi chiều hôm ấy, chúng
tôi không chú ý tới bày én vì ngay khi tới cuối vườn thì gia đình Barshinskeys
đang tiến tới. Ông ta trông thật kỳ cục: thân hình to lớn
vạm vỡ với bộ râu đen nhánh, rậm rạp và quăn tít, cặp mắt sâu hắm và hơi xếch nằm
trên gương mặt sạm nắng. Vừa thấy chúng tôi, cánh tay cầm cây đàn của ông đưa lên vẫy về phía chúng tôi với một cử chỉ
chào đón nhiệt tình nồng ấm mà ai cũng cảm thấy ngay. Hàm râu ông rung rinh và
đôi mắt long lanh theo nụ cười di động.
Đầu ông,với gương mặt xạm nắng, xếp nếp lắc lư về phía chúng tôi theo một điệu
nhạc như đề nghị chúng tôi hãy tham gia với ông sự kỳ diệu của cuộc sống chung
quanh.
Trái lại, vợ ông trông mệt mỏi
phờ phạc, tôi nghĩ có lẽ do đang phải hì hục đẩy chiếc xe tay nặng nhọc đó. Lũ
con thì đi chân đất, trông rách rưới bẩn
thỉu như kẻ vô gia cư. Trong tôi, ngay tức khắc đã có sự so sánh đẳng cấp giữa chúng tôi và họ. Làng này đã có lệ đặc
biệt: giày vớ là thước đo sự sang hèn của một gia đình. Nhà có con cái đi giày
được coi vào hàng khá giả, trái lại thì không. Đám trẻ trong làng, những đứa
không có giày mang, đưá nào cũng trải qua
một kinh nghiệm ,tuy nhỏ nhặt nhưng có phần tủi hổ ,với cô Thurston ,cô
giáo già của trường làng, , khi cô bảo họ
ở lại đợi cô sau giờ tan học. cô
ra vẻ như muốn hỏi han họ về chuyện học hành, nhưng ngay sau khi mọi
người đã ra về hết, cô mở ngay cái tủ tế
bần và lôi ra quần áo giày dép để bắt
chúng mặc thử. Ngày hôm sau, chúng tôi chắc chắn sẽ nhìn thấy đứa trẻ đi chân đất
hôm trước vào lớp học đi cà nhắc trên những
đôi giày quá to hay quá nhỏ. Cô Thurston luôn cho họ những đôi vớ thật dầy khi
đôi giày quá to, hoặc bảo họ nới lỏng hay đừng cột dây giày nữa khi chúng quá
chật.
Có một lần cô tỏ ra rất giận
dữ, đó là khi có đứa dám cắt bỏ đi cái mũi của
một đôi giày quá chật,cô quên béng cái nguyên tắc của cô là không bao giờ
nhắc đến đồ cứu tế trong lớp học,để giáo huấn chúng tôi rằng thì là ‘ quần áo giày dép mà đem cắt xén như thế có nghĩa người khác sẽ không xử dụng được nữa.
Từ đó trong tôi nảy sinh một mặc cảm tôi lỗi mỗi khi thấy một đứa trẻ phải mang
giày tế bần. Lúc này, nhìn lũ con nhà Barshinskeys chân đất, mặc cảm tội lỗi ấy vụt trở lại, tôi vội vàng rút đôi chân mang giày của mình vào phía
trong hàng rào để bọn họ không nghĩ rằng tôi đang muốn khoe mình thuộc hàng khá
giả .
Đứa con trai nhìn thấy chúng
tôi, nó quay đầu qua, miệng hơi cười mỉm, nụ cười giống hệt như ông bố, chỉ khác là thiếu sự nồng ấm
nhiệt tình. Dù sao, tôi vẫn cảm được một dấu hiệu thân thiện nào đó, và tôi mỉm cười với nó, cũng không nhiệt tâm
lắm. Nó bèn bước ra khỏi đường tiến lại sát hàng rào phía chúng tôi và nói như
vừa đủ để chỉ mình tôi nghe thấy:
-
Ê nhỏ! Tao thấy mày để lòi cả quần lót ra khi mày tụt xuống khỏi
hàng rào đó.
Nó cười nham nhở rồi quay lại
đi theo chiếc xe của mẹ.
-
Ơ hay…
Tôi ngượng chín người. Muốn chửi lại nó một câu thật tồi tệ mà
lúc đó không kịp nghĩ ra (Lúc đó
chỉ mong nó bê cái lu nước để tôi có
cái chửi, nhưng người ôm lu lại là em gái nó, cái cô gái nhỏ nhất). Vừa giận dữ vừa cảm thấy bị sỉ nhục,
tôi càng quê độ hơn khi nghe tiếng Lillian cười khúc khích.
- Thôi mình đi về nhặt trứng cho mẹ đi.
Tôi đánh trống lảng, nhưng
cả Lillian và Edwin đều không thèm nghe. Tôi lập lại lần nữa, Cả hai vẫn im lặng.
- Tao nghĩ đây là người vắt sữa
mới của ông Hayward. – Edwin nói mắt vẫn theo dõi họ. - Bố bảo hôm nay ông ta đến.
Bố nói ông ấy có ba đứa con. Vậy là đám này chứ ai?
Nghe thế, hai chị em tôi trợn
mắt nhìn nhau, kinh ngạc và khiếp đảm.
Trong làng chưa hề có người vắt sữa bò nào giống như nhà lão này. Ở đây, nghề nuôi bò sữa được khá nể trọng. Những người làm nghề này phải
là những người có tinh thần trách nhiệm. Họ không thể đi vào làng thong
dong như thế, chỉ mang mỗi cây đàn trong tay, bỏ mặc vợ con lo
chuyên chở hết vật dụng đồ đạc cồng kềnh nặng nề không ngó ngàng gì tới.
Edwin nói một cách thận trọng:
- Chắc bố không hài lòng lắm
đâu.
Bố tôi là viên đốc công kiêm chức quản lý trong cái nông trại
của ông Hayward. Bố thực sự không hài lòng lắm về việc thu nhận người vắt sữa mới vào làm việc. Chuyện
xảy ra như sau: ông chủ trại Hayward là loại người bạn sẽ cho là giỏi giang,
thích nghiên cứu tìm tòi để phát triển nếu bạn được đối xử tốt. Ngược lại bạn sẽ
cho ông ta là thành phần xuẩn động,
thích làm những trò mới lạ viễn vông.
Trang trại của ông có một bày bò loại sừng ngắn từng đoạt được rất nhiều giải
thưởng trong các hội chợ hàng năm trên tỉnh. Trong hai năm vừa qua, ông đang
thí nghiệm một hình thức lai giống mới và
thử nghiệm các phương pháp nuôi dưỡng gia súc khác để cải tiến nông trại. Bố tôi lúc đầu không mặn mà , nhưng với bản
tính nhẫn nại điềm đạm, dần dà ông thấy rõ
bầy bò ngày càng phát triển, lượng sữa sản xuất gia tăng mạnh. Do đó hai
người cùng quyết định sẽ mướn thêm một công nhân vào ngày lễ thánh Michael. Người
này sẽ được hai người cùng chọn lựa kỹ
càng vào ngày lễ hội.
Đùng một cái, vào giữa
tháng Tư, với bản tánh bất nhất hay thay đổi, ông chủ báo cho bố biết đã gặp một người ở chợ
Sevenoaks coi khá lắm và ông ta đã thu
nhận người này vào làm. Bố tôi lại nghĩ
khác, bố không thể nào tin tưởng vào một công nhân tốt lại thất nghiệp ngay giữa
vụ mùa, cả về khả năng nghề nghiệp lẫn
phẩm cách. Do đó, với bộ dạng người khách lạ râu ria này, chắc chắn
không làm giảm đi những nghi ngờ của ông.
Tôi nhìn lại cái diễn tiến
nho nhỏ vừa xảy ra trên con đường ngang qua cánh đồng đó một lần nữa. Chiếc xe
tay người đàn bà đang đẩy có trục trặc, một bánh xe dường như có vấn đề, cứ lăn
trệch qua một bên, người đàn bà lại còn phải cố
dùng sức đẩy xe lên khỏi những ổ gà, hay
những vết lằn sâu bánh xe cũ bị
lún còn để lại trên đường. Đứa con
trai chạy đến giúp mẹ nâng lên rồi cùng
phụ đẩy xe với bà. Đột nhiên, tôi cảm thấy buồn phiền hơn. Tôi thấy xấu hổ nhục
nhã cho người đàn bà, không phải cho người đàn ông, chả hiểu tại sao. Tôi cho rằng bà thật sai lầm khi cho phép người chồng xử dụng mình như một
kẻ ở. Nếu là bọn hành khất thì đã không thành vấn đề vì đó là lối sống của họ,
những kẻ phiêu bạt vô gia cư vô nghề nghiệp, đàn bà con nít cũng phải làm những
công việc nặng nhọc. Đàng này, đây là người thợ nuôi bò sữa thì khác, đó là sự sỉ nhục cho người vợ.
Tôi nhìn bà một lần nữa: rõ ràng không phải là một kẻ ăn xin, bà trông mệt mỏi lam lũ vậy thôi. Sao như thế được?
Đáng lẽ bà phải giữ cho được cái phong cách và niềm tự hào của người đàn bà chứ?. Tôi quay mặt đi không chịu nổi cái cảnh ấy
thêm phút nào nữa.
- Thôi về lượm trứng chứ. Sắp trễ giờ ăn tối rồi đó.
Cả hai vẫn chẳng trả lời,
cũng không nhúc nhích. Tôi bỗng thấy Edwin đang chăm chú nhìn vào một trong hai
cô con gái, không phải cô bé ôm cái lu mà chính là cô gái lớn. Cô có một làn nâu sậm như bố . Đầu
cô đội một cái rổ đựng những vật dụng nhà bếp linh tinh.
Khi ấy tôi còn quá nhỏ để nhận biết được chất quyến rũ đầy nhục dục
tính trong con người cô gái này. Sau này, có gặp một đôi người giống vậy và đã
biết đến sức lôi cuốn của sự quyến rũ đó. Tôi đã cố gắng tránh tiếp xúc mỗi khi
có thể tránh. Nhưng ngay buổi chiều đầu tiên hôm đó, tôi chỉ biết rằng cô hoàn
toàn khác hẳn đám con gái trong làng. Cô ta mặc trên người một chiếc robe dài màu xám, bên ngoài không áo khoác, dưới gấu
áo đường chỉ đã bị bung ra, lòng thòng xuống chân trông lùi xùi, lòi ra đôi bàn chân khẳng khiu
với đôi mắt cá đen xạm.
Mái tóc nâu thật dầy và bóng bẩy rủ xuống ngang vai với những lọn tóc uốn quăn như những cái lò xo toả ra ôm lấy
khuôn mặt. Đôi mắt nửa đen nửa đỏ có vẻ sâu và xếch như mắt mèo. Con người cô
toát lên một vẻ rực rỡ nào đó, một thoáng nhẹ nhàng như lướt đi trong từng bước chân của cô, một niềm vui ánh
lên trên gương mặt làm ta có cảm tưởng cô
sẽ bật ra tiếng cười bất cứ lúc nào.
- Eddie! Anh nghĩ gì vậy? – Tôi hỏi Edwin, giọng có vẻ
hơi bực khi thấy anh nhìn cô gái chằm chặp. Thật khó ai có thể đoán anh đang
nghĩ gì trong đầu.
- Nhỏ đó có cái mũi “sư tử”
trông tức cười quá. – Anh trả lời.
Đột nhiên tôi thấy sung sướng.
Nhìn kỹ, quả thật mũi cô gái khá to.
Điều đó làm cô gái trông càng giống con mèo hơn, thêm vào mấy sợi
ria mép nữa là y hệt.
- Thôi đi làm việc chứ?
Cả hai vẫn không thèm cử động. Tôi đành một mình bỏ đi sau khi nhìn kỹ lại lần
chót những khuôn mặt gia đình Barshinskeys đang khuất dần cùng lúc
với đàn chim ém cũng la hét loạn xạ và biến mất vào khung trời đang tối dần.
Khi còn trẻ ta thường tin rằng
khi lớn lên mình sẽ hoàn toàn thay đổi.. Chẳng hạn như tôi đã nghĩ, hiện tại
tôi như con nhộng còn nằm trong kén, có ngày nó sẽ trở thành một nàng bướm trắng nhởn nhơ vẫy cánh, hay may mắn hơn là một chú chuồn chuồn oai phong lẫm liệt. Điều đó
thực ra không đúng, dù đôi khi có thể có một sự biến hoá hay thay đổi mạnh mẽ
nào đó. Lúc nhỏ ta ra sao thì lớn lên cũng
sẽ như thế. Đứa trẻ tham lam ích kỷ lớn lên cũng vẫn là người tham lam ích kỷ, cho
dù với sự khôn ngoan hơn, người ta có thể
giấu giếm những tật xấu trong một lúc
nào đó. Tương tự, cái khuôn mẫu về tương lai của chúng ta đã được đặt để sẵn
trong con người chúng ta, chi phối từ bản
chất của mỗi cá nhân, từ những cái ta thích cái ta không. Bây giờ, nhìn lại mùa hè năm ấy, tôi thấy rằng
lối sống của chúng tôi, cả hai gia đình tôi và Barshinskeys trong cái năm đặc
biệt ấy chính là cái thế giới thu nhỏ của chính chúng tôi những năm tháng sau
này.
Trong lúc lượm trứng, tôi mải
suy nghĩ về người đàn ông với vòng hoa dại quanh vành mũ, về người đàn bà trông yếu đuối bệnh hoạn phải đẩy chiếc xe
tay nặng nhọc. Tôi lại nghĩ đến đôi bàn tay thô kệch giống ông nội và thường bị
cắn nát móng của mình. Rồi lại nghĩ đến một thế giới khi lớn lên mà những bờ
rào phủ đầy hoa trắng và những đàn chim én lượn khắp bầu trời chỉ là trang mở đầu
cho hàng loạt những kỳ lạ sắp xảy ra. Thơ thẩn lượm trứng một hồi, tôi chợt nhớ
ra mình đã trễ giờ ăn tối, tôi vội quay vào nhà. Lillian và Edwin đã gọn gàng sạch sẽ ngồi chờ sẵn trong phòng
ăn. Mẹ đặc biệt chú ý tới vệ sinh trước mỗi bữa ăn.
- Sophie! - Mẹ gọi.- đi đâu
về muộn vậy? Coi tay chân kìa! Đi rửa ráy mau.
- Con đi nhặt trứng về mà!
- À! Đáng lẽ con phải làm sớm
hơn , còn về tắm rửa chứ?
Tôi nhìn chòng chọc vào
ông anh bà chị gọn gàng tề chỉnh nhưng biếng nhác kia một cách giận dữ. Liếc sơ
gương mặt của mẹ lúc đó, tôi hiểu ngay lúc này mà phân bua thì thật ngu xuẩn.
Chiều hôm đó trời thật nóng nực, lại trúng vào ngày mẹ phải nướng bánh nên bà rất
mệt và dễ quạu, tốt hơn hết là đừng nói gì. Tôi nén cơn giận bước vào phòng rửa
ráy tay chân mặt mũi. Trên đường trở lại phòng ăn, dồn hết sự bực tức trong cú đá mạnh vào cái bao đựng thức ăn cho
heo và tưởng tượng đá vào cái đầu của Edwin và cảm thấy hả dạ.
Bố bắt đầu lời cầu nguyện.
- Lạy Chúa, chúng con chân
thành cảm tạ Chúa vì những ân sủng Người
ban và của ăn mà chúng con sắp được nhận lãnh…
Mẹ vẫn còn cố giấu sự bực bội
qua tiếng Amen ầm ừ trong miệng rồi đưa
tay ra như chụp lấy bình trà. Tôi thường có hai cảm xúc trong những ngày nướng
bánh. Bánh mì mới ra lò nóng và giòn. Mùi bánh mới thơm phức làm tôi ngây ngất.
Nếu tôi không vớ được phần vỏ giòn tan bên ngoài thì phần
trong cũng vẫn còn nóng , bơ không cần
trét, cứ nhét nguyên cục vào nó cũng tan ra.
- Không trét bơ kiểu đó
Sophie! - Mẹ la. – Làm như Lillie kìa!
- Nhưng chị ấy có được phần
vỏ giòn bên ngoài mà!
- Không được cãi mẹ, nghe
chưa ?
Đó là cảm xúc của tôi, buồn vui lẫn lộn, trong ngày nướng
bánh: Bánh mới thơm ngon, tính mẹ gắt gỏng. Thực tình mà nói, mẹ không ưa nấu
nướng. Trước khi lấy chồng, mẹ là quản nội trưởng của
Nhà Trắng, và mặc dù đánh giá
công việc nội trợ ở một tiêu chuẩn rất cao, bà chẳng có hứng thú khi phải
nấu nướng cho cả một gia đình. Mùa hè trời đã nóng lại phải đốt lò trong nhà suốt
ngày khi nướng bánh lại càng tệ hơn. Nhưng tôi cũng phải thừa nhận, dù ghét nấu
nướng, mẹ vẫn là một đầu bếp gỉỏi. Dù bánh mì, bánh ngọt hay bích quy, hễ ra khỏi
lò là phải vàng đều và giòn tan. Bánh càng ngon càng giòn, mẹ càng dễ quạu.
- Sophie! Không húp trà sùm
sụp như vậy, và ngồi thẳng lưng lên coi. Con gái gì mà ngồi ăn mặt gần chạm mặt
bàn thế kia hử?
Tôi có cảm tưởng như bị trừng
phạt, cái cảm giác quen thuộc trong ngày
nướng bánh. Mặc kệ, thấy còn hơi đói, tôi vói tay qua bàn lấy thêm một mẩu
bánh. Hôm nay, ngày gia đình Barshinskeys đến, bánh mì thật là ngon.
- Coi móng tay của con kìa!
Sophie, chừng nào mới chừa được tật cắn
nát móng tay vậy? Chắc mẹ phải bôi thuốc lên cho con chừa cái tật xấu ấy mới được. Muốn lấy bơ
thì nhờ Lillie chuyển qua cho, không có choàng tay qua như vậy.
Bầu không khí trong phòng
trở nên ngột ngạt.Dưới gầm bàn, Edwin đá nhẹ vào chân tôi. Ngước mắt lên tôi thấy
anh đang nháy mắt với tôi. May mẹ không nhìn thấy. Rồi anh vội cướp lời khi thấy
mẹ sắp la mắng tôi một câu gì khác nữa.
- Bố à! Con nghĩ người thợ vắt
sữa mới đã đến rồi. Hồi chiều này tụi con
thấy một gia đình dọn đến, họ đi qua cánh đồng nhà Tylers có đẩy theo
chiếc xe chở đầy đồ đạc trên đó.
- Đúng thế con ạ!
- Rồi họ sống ở đâu bố?
Bố không trả lời ngay. Ông cắt
lấy một mẩu bánh mì, cẩn thận trét bơ lên, rồi nhấp một ngụm trà. Chúng tôi há
miệng chờ đợi. Đó là tính cách của bố. Ông luôn có lý do cho sự chậm rãi, khi
thì để suy nghĩ chín chắn trước khi trả lời, khi để tạo cho chúng tôi một sự bất
ngờ , thích thú hoặc sững sờ . Mẹ nói nhiều, nhưng chúng tôi ít để ý. Bố thì
khác, khi ông nói, chúng tôi rất chú tâm từng
lời của bố, dù phải đợi lâu .
- Họ sẽ ở ngay sát cạnh nhà
mình đây. Căn nhà “tổ cú” đó!
Bỗng dưng một sự yên lặng khác thường tràn ngập bàn ăn. Mẹ đăm đăm
nhìn bố. Lillian mở tròn vo đôi môi hồng
trong một tiếng ồ khiếp đảm.
- Ông Hayward chưa có sẵn nhà
trống cho đến sau lễ thánh Michael. - Bố nói thật điềm đạm. – Ông ấy có cho ông
ta biết điều đó trước khi mướn . Ông này bảo điều đó không thành vấn đề, miễn
là có một chỗ cho gia đình ông trú ngụ.
Ông Hayward đã cho ông biết có một căn với giá thuê 4 đồng Shilling một tuần hoặc là chọn cái tổ cú cạnh nhà mình đây hoàn toàn miễn
phí. Ông ta không do dự chọn ngay căn nhà “tổ cú”.
Lại im lặng. Mẹ tôi dường
như cảm thấy danh dự của bà bị xúc phạm. Bất cứ ai vào ở trong căn nhà bỏ hoang đó
đã quá tệ. Giờ lại sống ngay sát cạnh nhà thì sự tồi tệ đã tăng gấp hai. Lillian rõ
ràng đang hậm hực trong lòng với vẻ ghê tởm. Edwin và tôi lại bực bội vì mất đi
một chỗ để chợi trò trốn tìm. Cuối cùng, mẹ cũng phá tan im lặng:
- Ai có thể sống được trong căn
nhà hoang đó chứ? Thế ông ta và vợ đã
coi qua nó chưa?
- Tôi không biết, mình ơi! - Bố
nói tỉnh queo. - Không ở được thì căn
nhà ngoài kia vẫn còn đó, có 4 đồng shilling một tuần có đáng là bao.
Mẹ hết xoay cái cái nắp ấm
trà iại gõ loong coong vào bình nước sôi rồi lại đẩy đưa đĩa bánh ngọt qua lại.
- Nhà cửa gì chỗ đó! trống trải
lạnh lẽo như nhà mồ, phòng ốc không cửa nẻo, chẳng có riêng tư gì hết. sàn nhà dơ dáy, bếp núc thì
không, cái bơm để lấy nước dùng lại ở mãi tận cuối vườn xa lắc…
- Trừ khi mình cho phép họ
qua vườn nhà mình lấy nước, Maud ạ!
- Để coi xem họ thuộc loại
người nào trước đã.
- Loại ăn xin bất hảo chứ loại
gì? – Lillian xen vào. Chị đã hết sửng sốt và bắt đầu nhập cuộc tố khổ. – Lũ
con ăn mặc rách rưới, chân tay không giày không dép, đồ đạc cũ kỹ tồi tàn. Tụi
con đã thấy rõ hết chiều nay. Đến chiếc xe đẩy tay cũng không có một mảnh vải
làm mui.
Miệng chị nói, tay chị vừa trét bơ vào bánh với dáng điệu vừa muốn khoe
đôi bàn tay đẹp vừa tỏ ra thanh lịch
trang nhã.
- Họ không phải là đám ăn mày. – Tôi bỗng cãi
lại thật giận dữ. - Nhất là bà mẹ. Bà ấy chỉ có vẻ hơi…lam lũ
bình dân vậy thôi. - Tôi không tìm ra từ
để diễn tả. Lillian trợn mắt lên:
- Mày không thấy bà ta đẩy chiếc
xe hệt như bọn ăn mày đấy sao?
- Này, cả hai nghe đây: họ là
ai , điều đó không liên quan đến chúng ta. - Mẹ nói. –Là hàng xóm với nhau cũng
tốt. Tuy nhiên, trong làng còn thiếu gì người nghèo cần mình giúp đỡ, không cần
khuyến khích cho bọn bất lương, cứ chờ chực mình sơ hở là leo qua rào trộm heo bắt gà ngay…
Giọng điệu của mẹ rõ ràng
có ý bênh vực Lillian , và bà sẽ còn nói tiếp nếu bố không hắng giọng lên tiếng:
- Này mình, cho tôi xin miếng
bánh ngọt.
Đôi má mẹ chợt bừng đỏ. Bà
cắt miếng bánh đưa cho bố. Cả nhà im lặng
suy nghĩ về những người sẽ sống trong
căn nhà “ tổ cú”. Tôi chẳng thể nào nhớ
nổi có ai đã từng sống trong căn nhà
hoang đó. Trước đây bố kể là khi ông còn
nhỏ, có một bà lão nuôi chồn từng sống qua. Sau đó bị bỏ hoang thành chỗ cho
loài cú và rắn chuột làm ổ. Nó được bao
quanh bởi một rừng những cây
tầm ma và những
Cây táo già cỗi. Edwin và tôi t hường tụ tập
chơi ở đó trong những
ngày mưa gió. Đó là một nơi tuyệt
diệu để vui đùa trong nhà.
Nhìn từ bên ngoài, những mảng mái to lớn, các ống khói và cửa số cao thấp
nhiều cỡ khác nhau. Mái nhà (có tới chín mái cả thảy) được lợp bằng ngói đỏ phủ
đầy rêu. Hầu hết cửa sổ đã hư hỏng,
nhưng cái nào cũng có hình dạng bất thường. Vài cái uốn cong như cửa sổ nhà thờ,
cái lại vuông vức với những chấn song. Bên trong nhà cũng kỳ dị như vậy.
Giống như mẹ đã nói ở
trên, giữa các phòng chẳng có cửa nẻo, mỗi phòng mở thẳng sang phòng kế bên. Lại không có được đến hai
phòng ở cùng một mặt bằng. Căn phòng đầu
tiên người ta bước vào có một bậc thang bằng gạch đi lên dẫn qua một căn phòng nhỏ xíu có trần thật cao với hai bộ cửa sổ xếp chồng lên nhau.Kế tiếp là một
dãy bậc cấp đi xuống dẫn đến một nhà bếp. Lại một bậc nữa đi xuống căn
phòng giặt dưới hầm , không có nước, nhưng lại có một cái máng bằng đá xây to tổ
bố dọc theo một sườn phòng , và rồi cứ lên lên xuống xuống
như thế. Nó giống như cái hang thỏ. Một nơi tuyệt cú mèo để chơi trò ma quái hiện hình hay giết người săn
cướp. Bạn không thể nào biết sẽ có ai nhảy
sổ vào bạn từ những ngóc ngách trong nhà hay trên dưới các bậc thang.
- Tốt lắm. - Bố vừa nói tay vừa buông khỏi đĩa bánh . - Bữa ăn tuyệt vời
,mình ạ! Tôi mong cả làng này ai cũng được ăn ngon như thế này.
Mẹ không trả lời ông. Bà bắt
đầu thu xếp bát đĩa trên bàn vang lên những tiếng lách cách, trong khi bố
tiếp tục:
- Tôi cũng ghét phải nghĩ đến cảnh tượng một người đàn bà cùng đám con lên giường ngủ với cái bụng lép
kẹp , lại không có ai giúp chỉ cho họ chỗ
lấy nước .
Mẹ lại khua vang bát đĩa lớn hơn., khi bố còn đang nói, mắt ông chớp
chớp về phía chúng tôi:
- Gia đình chúng ta được
Chúa chúc lành. Và bố không muốn nghĩ rằng
chúng ta tự đặt mình ở vị thế cao hơn những kẻ kém may mắn hơn.
Nói xong, ông đứng dậy khỏi
bàn ăn , đội mũ lên đầu và quay trở lại
nông trại. Edwin đi vào phòng giặt rửa xách một xô đồ ăn của heo mang ra cái lò ngoài vườn để đun sôi. Tôi theo mẹ ra
chỗ rửa chén bát và lờ mờ đoán ra việc gì xảy ra sau đó. Mẹ gọi:
- Sophie! Rửa xong đống chén bát này cho nhanh
rồi thử ghé qua bên đó chỉ chỗ cho
người đàn bà đó chỗ lấy nước ngay.
Con bảo bà ta tạm thời tối nay qua đây lấy nước mà dùng. Con có thể hỏi bà ta coi có giúp được gì không, nhưng không cần xăn
xái quá, Hỏi cho có vẻ lịch sự thôi. À
mang theo cái này cho họ, Chờ mẹ bỏ vào một ít đồ.
Bà vừa nói vừa xếp vào
trong cái giỏ đi chợ một mớ đồ: một ổ bánh mì, một tá trứng, bơ được bỏ vào
trong một cái tách đã sứt quai ( với ý tôi khỏi phải lấy lại ), một hộp mứt
trái táo làm từ năm ngoái, ít trà, đường
và một bình sữa tươi.
- Đừng có ở đó lâu quá. Mẹ biết
con có tật la cà quen nết. Mang đồ đến cho họ rồi mang giỏ về.
- Con đi nữa được không mẹ?
– Lillian hỏi với. Mẹ lưỡng lự. Cho con
bé Lillian thanh lịch trang trọng ,sạch sẽ
bước vào căn nhà hoang đó ư, thì cũng tệ gần như chính bà đi vào đó vậy.
- Đồng ý đi . Mẹ biết Sophie nó ra sao rồi mà. Thế nào nó
chẳng ở suốt buổi tối ở đó , rồi khi về nhà lại quên lấy lại giỏ. Nó lại không nói thật với mẹ thực sự bọn họ
như thế nào. Rồi nó sẽ bịa ra khối chuyện
hoang tưởng nào là về màu mắt của họ , về
những trò ảo thuật đứng lộn ngược trên cái đầu của mình thật lâu hay đại loại
những chuyện thêu dệt như thế..
- Thôi được. Cả
hai đứa đi làm việc của mình tối
nay cho
xong
trước đã rồi hãy đi.
Công việc của tôi là rửa
chén bát, và đổ đầy nước vào nồi niêu ấm
tách chuẩn bị cho bữa sáng. Gặp những ngày nướng bánh thì có cả đống đồ để rửa.
Lillian chỉ phải lo may vá. Chị ấy được
miễn công việc nặng nhọc vì “có năng khiếu bẩm sinh với kim chỉ”. Chị đã qua tuổi
mười bốn và chuẩn bị rời trường học vào tháng Bẩy. Sau đó, trong
cái ganh tỵ của toàn bạn gái cùng lớp, chị
sẽ được học nghề với cô Clark, bà chủ tiệm may đo uy tín nhất. Mẹ đã tiết
kiệm để dành tiền bán trứng trong nhiều
năm cho việc này. Và việc cô Clark nhận Lillian vào học nghề là một thành tựu
vĩ đại trong đời mẹ.Có nghĩa trong nhà đã có người thăng tiến trên thế giới.
Trong một thị trấn bé nhỏ
như làng của chúng tôi, đâu có mấy cơ hội để
tiến thân. Nếu bạn là một đưá con gái bình thường, con đường duy nhất là đi vào làm việc trong một
hãng xưởng, không làm mứt thì cũng
làm dưa muối cà, khá hơn thì đi làm dịch vụ. Lillian đã vượt qua được
cái số phận tầm thường của hầu hết các thôn nữ
ấy. Mọi người đều công nhận chị có
dáng thanh lịch. Cao lớn như mẹ và bà ngoại. Chị lại luôn quan tâm đến ngoại hình của mình, ngay cả khi làm những
công việc bình thường như đi lấy sữa.
Chị đã xong công việc may vá. Khi đến giờ chúng
tôi đã sẵn sàng để đi, chị tháo bỏ cái tạp
dề( áo choàng làm việc ở ngoài) ra ,
rồi cuốn thêm một giải băng cột tóc quanh đầu lên thành như một cái vương miện
bằng vải. Bỗng chốc chị thành người lớn: cô Lillian Willoughby, con gái lớn của
gia đình, trên đường chính thức viếng thăm.
- Để tao xách cái giỏ. - Chị
nói. - Mày xách thùng sữa đi.
Có hai lối đi đến căn nhà “tổ cú”. Một lối tắt Edwin và tôi thường dùng là chui
qua kẽ hở của hàng rào rồi vẹt qua khu vườn hoang dại rậm rạp. Một lối xa hơn đi từ cửa sau của căn nhà
chúng tôi, băng qua cái sân , rồi bước xuống một lối đi lót gạch bọc qua cửa
trước không bao giờ được mở để ra đường, quẹo phải đi dọc theo con đường chừng
ba mươi sải thì đến cổng của căn nhà “tổ cú”, lại băng
qua khu vườn rậm rạp mới tới cửa nhà.
- Mình sẽ đi đường chính, bởi
ta chính thức đi thăm họ mà. – Lllian nói.
Tôi bước theo sau chị thở hổn
hển vì phải kéo lê cái bình sữa nặng
,làm sao để cho nó không đập vào đầu gối
và sánh ra ngoài. Khi tôi thấy chị xinh xắn quá, tôi đã tính bắt chước cởi
bỏ cái tạp dề ra. Nhưng khi lết được tới cổng nhà họ, tôi mừng vì mình đã không
làm thế. Cái tạp dề và đôi giày của tôi đã ướt đẫm sữa .
Chúng tôi gõ lên cái được
cho là cửa trước của căn nhà, mặc dù với căn nhà này, chẳng ai biết có đúng hay
không, và cũng chẳng ngạc nhiên khi không thấy ai ra tiếp. Đó cũng là một điểm lạ lùng của căn nhà “tổ
cú”: cho dù phòng ốc không cửa nẻo, âm
thanh cũng bị ngăn cách vì những hành
lang ,những bậc cấp . Có vài căn phòng lại chẳng nghe được gì. Cuối cùng, chị
em tôi mở đại cửa bước vào, leo lên mấy bậc cấp đi qua căn phòng
có trần cao rồi bước xuống nhà bếp. Tôi gọi nó là nhà bếp vì có hai hàng kệ nhô ra từ trong tường, và có một lò sưởi nhỏ
“như cái ổ gà”. Chỉ có vậy. Không tủ đựng thức ăn , không chạn bát.
Người mẹ ở đó, ngồi trên một
chiếc ghế, đầu dựa vào tường. Gương mặt bà xám xịt và trán lấm tấm mồ hôi. Đứa
con trai ăn nói thô lỗ với tôi hồi chiều đang
hì hục nhóm lửa vào cái lò sưởi bé tí. Cô con gái nhỏ hồi chiều ôm cái
lu đang lôi chén bát nồi niêu ra xếp lên kệ. Ông bố và đứa con gái lớn thì
không thấy đâu.
Lillian đưa tay lên che miệng
và khẽ ho một tiếng:
- Dạ xin lỗi! - Chị nói, với
một giọng cố ra vẻ ngọt ngào dễ thương. - Chị em cháu ở bên cạnh đây. Cháu tên là Lillian Willoughby và đây là
Sophie, em gái cháu.
Người mẹ mở bừng đôi mắt. Cả
hai đứa con trai và cô gái nhỏ cũng quay mặt lại.
- Mẹ cháu có gửi sang biếu
ít đồ, không biết gia đình bác mới đến có ổn cố không?
Vừa nói, cặp mắt của Lillian
vừa đảo qua khắp nơi, định giá phẩm chất
đồ đạc và sự sạch sẽ ngăn nắp của mọi thứ .
- Mẹ cháu nghĩ chắc bà chưa
biết chỗ lấy nước. - Chị nói tiếp. - Nó ở
trên đỉnh đồi. Bà cứ đi đến cuối vườn rồi
leo qua rào là thấy.
- Nhưng bà có thể qua nhà cháu
lấy nước ngay đây thôi. – Tôi nói thật nhanh.
- Chỉ tối nay thôi.
Người đàn bà đứng dậy đưa tay lên vuốt ngược mái tóc màu nhạt
ra phía sau lưng. Mặt bà hơi bừng
đỏ và nói bằng một giọng run run :
- Gia đình cô thật tử tế.
Nhưng chúng tôi có thể tự lo…
Giọng nói của bà, lạ thay,
thật nhẹ nhàng kiểu cách. Bà cũng có âm
hưởng vùng Kent như hầu hết chúng tôi
nhưng bà nói thật…êm dịu, và lối nói giống
như mẹ tôi nói . Đó là giọng nói của người con gái miền quê có học thức và từng làm việc ở trong những gia trang lớn.
Thật ngỡ ngàng khi nghe được giọng nói đó xuất phát từ một con người có hình dạng
như một kẻ hành khất. Bà bỏ tay xuống
xoa vào chiếc áo màu nâu bùn đang mặc.
- Tôi là vợ ông Barshinskey.
Còn đây là Ivan. Đó là con bé tên Daisy May.
Barshinskey! Nghe cái tên
thật lạ. Chúng tôi chưa hề nghe thấy có cái tên như thế trong làng. Cái tên
Ivan nữa chứ! Cũng chẳng hề có Ivan. Còn tên Daisy và May hả? Nhiều lắm. Nhưng
Daisy May Barshinskey, nghe tức cười làm sao!
Daisy May chộp lấy cái giỏ trên tay Lillian rất
nhanh, như ra vẻ sợ chị
đổi ý.
- Cho xin lại cái giỏ. –
Lllian nói với vẻ hơi tức bực.
Daisy May bắt đầu lấy đồ
trong giỏ ra. Ba mẹ con đều dán chặt mắt vào đó. Có một sự yên lặng tuyệt đối. Mắt họ
di động theo từng cử chỉ của đôi bàn tay Daisy May. Món đồ cuối cùng lấy
ra trong giỏ là ổ bánh mì vẫn còn hơi nóng và mùi vị của men. Bầu không khí bỗng
trở nên xao động.
- Chúa ơi! Mẹ các cô thật là
tử tế. - Bà mẹ cuối cùng lên tiếng.
- Xin gửi lời cám ơn đến bà , thật cảm tạ…thật
cảm tạ… - Giọng bà hơi run rẩy và yếu dần.
Lillian tiếp lời:
- Mẹ cháu mới nướng bánh hôm
nay. Thật là khó cắt khi nó mới ra lò phải không? Ô lạy Chúa! Cái quai cầm của cái tách này đã bể. Sao mẹ
cháu lại vô ý thế nhỉ? Chắc bà ấy không thấy đó. Nếu không thì đã quăng nó đi mất
rồi. Nhưng bơ thì mới được làm ngày hôm
qua và trứng còn tươi nguyên . Chị em
cháu mới lượm về hồi chiều nay trước bữa ăn tối.
- Không phải vậy, chị đâu có
lượm trứng. Chỉ mình em làm. – Tôi chen vào.
Lillian giả vờ không nghe
thấy. Nhưng vầng cổ sau gáy cô thì đỏ bừng.
Tôi đặt bình sữa xuống sàn nhà. Chả biết còn lại được bao nhiêu.
- Bà có định ghé qua
bên nhà cháu lấy nước về dùng không ạ! –
Lillian nói thật khả ái.
Đứa con trai thôi không nhìn vào ổ bánh nữa mà quay sang ngó Lillian. Lúc ấy ,thằng
bé còn thấp hơn Lillian một chút, nhưng cái lối nó nhìn chị làm cho
tôi muốn
tha thứ cho cái tội đã thô lỗ với
tôi vì cái quần lót bị hở hồi chiều..
- Không, cám ơn. Chúng tôi sẽ tự đi tìm vòi
nước. -
Nó đăm đăm
nhìn vào Lilian làm chị nhột nhạt
đến
đỏ bừng và cuối cùng chị phải
quay qua phía bà mẹ.
- Nếu bác có cần chi xin cứ qua nhà cháu hỏi. Có lẽ mẹ cháu cho mượn ít đồ cần dùng… - Đôi mắt chị đảo một lượt qua những chai lọ
bát đĩa , và dừng lại ở cái bao nệm giường được dồn cỏ
quá nửa . - Nhà cháu vẫn còn một số đồ của bà nội để lại còn trữ trong kho. Cháu tin rằng mẹ cháu sẽ giúp nếu bà cần một ít làm giường ngủ.
Cả một sự bối rối mắc cở chạy
rần rật trên lưng, nhưng tôi chẳng biết làm thế nào cho phải. Tôi đành chỉ muốn
rời khỏi đây ngay.
- Chúng tôi không cần gì cả, cám ơn. - Đứa con trai nói. - Phần đồ đạc
còn lại sẽ được dọn đến sau. Chúng tôi chỉ mới mang một số ít đồ mà
chúng tôi có thể mang theo, phải không Daisy?
- Đúng vậy! .- Họ đứng sát
bên nhau, làm nên một rào cản vững chắc giữa chị em tôi và bà mẹ. Tôi nắm lấy chéo áo của Lillian kéo mạnh đi về phía những bực cấp.
- Thôi được. – Lllian lạnh
lùng nói. - Cháu xin phép đi về. Cháu còn mấy bài
đàn phải tập. Đi về nào . Sophie!
Chị lướt qua mặt tôi và bước
lên bậc cấp, đi nhanh ra khỏi căn nhà ngay trước khi tôi kịp rời khỏi căn bếp. Bước đến bậc cấp trên cùng, tôi ngoái cổ lại,
cố nghĩ ra một điều gì dễ thương để nói, đại khái một cái gì cho họ hiểu là chúng tôi cũng chẳng hơn gì họ.
Nhưng rồi tôi đã mong mình đừng nói
gì khi nhìn thấy bà mẹ lúc đó đang cầm một quả trứng gà trên tay và trân trọng nó như là một
đồng tiền vàng :
- Này Daisy, - Bà thì thầm
- Chúa ơi! Coi bao nhiêu là thực phẩm này, nào là trứng ,
bơ và cả sữa nữa…
- Có khác gì ăn mày. –
Lillian nói giận dữ trong khi chị em
tôi đi qua khu vườn
hoang trở về. - Con nhỏ đó thật thô bỉ.
Còn thằng
nhóc, mà y có thấy cái cách nó
nhìn tao không? Chân thì không giày
dép, quần áo mặc hở cả mông đít ra ngoài.
- Tôi sẽ méc mẹ chị ăn nói
dơ dáy.
Tôi trả lời một cách khó chịu,
còn Lillian chỉ lắc nhẹ cái đầu một tí và tiếp tục vội vã bước về. Tôi mặc kệ
chị, rồi quay lại nhìn căn nhà ‘tổ cú’
qua ánh chiều tà đang tối dần.
Những cây táo già nua có một ít cành đang trổ bông, nhưng chẳng bao giờ
kết trái, chưa bao giờ chúng có trái. Nhưng trông rất đẹp, và đằng sau chúng là cả một khung trời
vĩ đại còn ánh rực lên vào mùa hè năm đó.
Căn nhà ‘tổ cú’ trông huyền bí ra sao, điều này tôi chưa từng nghĩ đến.
Người ta có thể tưởng tượng có một nhà ảo thuật sống trong đó. Trời đã chuyển
màu từ xậm đỏ sang tím thẫm. Và tôi tự hỏi mình sẽ phải làm gì nếu bất ngờ có một phù thuỷ
hay một hiệp sĩ rừng xanh bịt mặt xuất hiện từ phía sau ngôi nhà? Rốt cuộc chẳng có hiệp sĩ, phù thủy cũng
không, ngoại trừ Ivan Barshinskey với cái xô đựng nước trên tay. Nó ngưng lại một
chút, rồi đi về phía cuối vườn.
- Cho tớ đi với được không?
- Không cần, cám ơn. Tao có
thể tìm ra nó mà.
Thằng nhóc có nước da hơi vàng và cái mũi tẹt rất buồn cười. Tóc nó
màu đen giống ông bố và cô gái trông như
mèo. Cặp mắt cũng hơi xếch.
- Trời đã tối rồi. Đằng ý có
thể không thấy.
Thằng nhóc không nói gì. Vì thế tôi cho là nó đồng ý để
tôi đi cùng. Hai đứa chui qua cái lỗ
hàng rào và đi tiếp lên đỉnh đồi. Khi tới nơi, trời đã tối mịt, chúng tôi chỉ kịp thấy cái vòn phun nước mờ mờ.
- Nước phọt ra mạnh lắm, phải
coi chừng. Đằng ý giữ thùng nước để tớ bơm cho.
Nó không nói, giữ cái xô để vào dưới cái vòi và tôi bắt đầu
bơm. Không biết vì quá tối hay vì quá bối rối, tôi đẩy cần bơm mạnh quá làm nước
phun ra văng ngược lên tung toé khắp người nó. Thằng nhóc buông cái xô nước ra
, nhảy ngược trở lại hét vào mặt tôi:
- Đồ con heo thúi tha! Mày cố
ý chơi tao.
Phản ứng đầu tiên của tôi
là sửng sốt vô cùng: làm sao có thể có bất cứ ai, cho dù là loại người chân đất
như nó, lại có thể thô bỉ như thế. Nhưng rồi cơn sửng sốt qua mau, và hầu như
ngay tức khắc, tôi thấy một sự giận dữ
sâu xa khủng khiếp. Có lẽ chính từ lúc Lillian diễn vai trò phu nhân đài các với bà
Barshinskey đã làm tôi bực bội, và cái cảm giác khó chịu đó cần phải được giải
toả.
- Một bài học cho mày dám ăn nói bậy bạ với tao hồi chiều, đồ ăn
mày dơ bẩn.
Mặc dù vòi nước bắn ra tung
toé, vẫn còn kha khá nước ở trong xô. Hắn xách nó lên ném
vào người tôi. Hầu hết dính lên mặt tôi, tràn qua miệng làm tôi bị ho sặc
sụa không nói nên lời. Tôi không phải là một người dạn dĩ. Bất cứ ai thích dùng bạo lực để hăm doạ người đều biết
rõ con bé Sophie Willoughby này là một kẻ nhát gan, nhu nhược . Nhưng đám người
họ Barshinskeys này đã làm tôi
thay đổi. Có một điểm xây xát nào đó trong tâm hồn làm tôi khổ sở. Có thể là
vì đó là ngày mẹ phải nướng bánh và cái tật cắn móng tay của tôi. Có thể vì bà Barshinskey không phải là ăn mày
mà lại đi đẩy xe tay. Cũng có thể vì Lillian xinh đẹp, đồng thời lại hay ác ý. Và cũng có
thể chẳng phải những thứ trên. Có thể vì
đó là một buổi chiều tháng Năm êm ả và tôi đã
đang mong đợi một điều gì mà tôi
không biết. Cơn giận dữ nằm sâu trong
lòng bỗng trồi lên, như giọt nước làm tràn ly, khi Ivan Barshinskey hắt những
giọt nước cuối cùng còn lại trong cái xô nước vào mặt tôi.
- Đáng đời! – Nó cười nhạo,
còn tôi cúi đầu xuống, lao vào tấn công.
Tôi ghì chặt ngay giữa ngực
áo Ivan, và dù hắn to con hơn, tôi đã vật
nó ngã xuống, cả hai té nhào xuống đất, vừa lăn lộn vừa thoi nhau túi
bụi. Nếu phải diễn tả màn đánh nhau này bằng từ cho đúng nghĩa. Có lẽ chúng tôi đã tưởng rằng
không phải hai đứa đang đánh nhau, mà là mỗi đứa đang thọi vào một cái bao.
Sao tôi có thể đấu lại Ivan.
Nó đã mười ba, lại thô bạo, cứng cỏi. Tôi chỉ mới mười một, lại nhỏ con so với số tuổi. Lại còn một cái thiệt
thòi nữa là mái tóc dài con gái của tôi thật bất tiện khi đánh nhau. Chẳng cần
lâu lắm, tôi đã bị đè xấp mặt xuống đất, đầu gối của Ivan chận ngay lưng, mái
tóc kéo ngược đầu tôi lại. Thật là đau khổ
và nó làm mắt tôi linh lợi. Tôi
ghét Ivan thậm tệ, và càng thậm tệ hơn vì tôi không thể cử động. Tôi cố
cựa quậy và chửi rủa nó là đồ heo chó, đồ giòi bọ, đồ quạ mổ và bất cứ thứ
gì tôi có thể nghĩ ra được. Còn Ivan thì nắm tóc tôi giật dữ dội hơn , đầu gối nó cũng ghì mạnh hơn xuống lưng
tôi.
- Chịu thua đi!
- Không! - Lại một cái giật
tóc.
- Đầu hàng mau.
Tôi thực sự nghĩ đành phải nói chịu thua thôi vì lúc này đã
đau quá. Nhưng may quá, tôi đựợc cứu thoát. Chưa bao giờ sung sướng khi nghe thấy tiếng của bố tôi như
thế trong lúc này.
- Coi kìa, Sophie! Bố không
biết mẹ con sẽ nói gì khi bà thấy con ở trong tình trạng như vầy. Bố cảm thấy
chắc là bà ấy không vui lắm đâu.
Cái đè trên lưng bỗng được hoá giải và tóc tôi cũng đưọc thả ra. Khi tôi xoay người
lại và đứng dậy, Ivan Barshinskey đã
bung ra khỏi và đang đứng trợn trừng
nhìn hai bố con tôi.
- Tối như vầy con còn lên
đây làm gì? - Bố nhẹ nhàng hỏi.
- Con chỉ cho nó chỗ lấy nước.
- À! Ra thế… - Ông mím chặt
môi, gục gặc cái đầu rồi ngửa mặt lên nhìn bầu trời:
- Cháu là con trai ông thợ
nuôi bò sữa, cậu ấm nhà Barshinskey phải
không?
Ivan không trả lời. Dưới
bóng tối nhạt nhoà, khuôn mặt nó y như
khuôn mặt con chồn bị mắc bẫy. Tôi vẫn có thể nhìn thấy cặp tròng trắng của hắn đảo qua đảo lại. Tôi
đứng đó với bố và dù biết chắc sẽ bị rắc rối lớn khi về nhà, tôi lại thấy tội nghiệp hơn cho hắn. Trông Ivan vừa hoang
dại vừa khiếp sợ. Quần áo của hắn đã
tơi tả lại cũng sũng ướt như tôi, và hắn sẽ chẳng có một cái giường êm ái với
chăn gối ấm áp tối nay. Đằng sau nỗi đau khổ này của tôi vẫn còn có những tiện
nghi vật chất, có bố, , có sự nồng ấm, có mọi thứ thân quen và có thể đoán được, cho dù phải
nghe nhiều lời rác rưởi quanh tai cùng những lời trách mắng của mẹ trong những
ngày nướng bánh. Tôi có cảm nhận điều gì
sẽ xảy ra đằng sau hắn. Tôi nói với giọng buồn bã:
- Tụi con bị té ngã bố ạ!
Cái bơm phọt nước ra quá mạnh làm tụi
con té.
- Bố hài lòng nghe con nói
thế, Sophie ạ! - Bố nói thật nghiêm trang. -
Nào bây giờ hai đứa cùng giữ cái xô nước cho thật vững để bố bơm nước. Sẽ
không có ai bị ướt hay té xuống bùn .
Không nói gì, hai đứa tôi mỗi đứa một bên giữ chặt cái xô
cho bố bơm nước. Xong xuôi , ông bước tới
gần, xách cái xô đầy nước đi về phiá hàng rào nhà Barshinskeys.
- Tôi có thể mang nó về được.
– Ivan nói một cách bướng bỉnh.
Không do dự một giây phút
nào, bố đưa ngay cái xô nước cho nó với câu nói :”tốt lắm”, rồi ông sải bước hút vào
bóng đêm.
- Sophie, đừng có về quá trễ đó!
Còn lại hai đứa chúng tôi,
im lặng đi ngược về hướng chúng tôi đã đi tới. Khi tới hàng rào,
tôi xách lấy thùng nước để Ivan chui qua rào mà nước không bị đổ.
- Cám ơn .
Ivan hờ hững nói, và dường
như giọng nói của nó đã phá tan sự im lặng
lạnh lẽo đó và cho nó cơ hôi để thô lỗ
thêm, nó tiếp tục:
- Khi tao thấy bọn mày đứng
nhìn gia đình tao một cách ngu ngốc từ mấy cái cọc rào đó, tao đã nghĩ bọn mày là một đám tự cao tự đại. Mà đúng thế. Tụi mày cho rằng mình ngon lành hơn người
khác phải không? Con nhỏ chị gái của mày thật là con bò ngạo mạn. Còn mày khi
leo xuống khỏi cọc rào đã cố khoe ra bộ đồ lót mặc ở trong.
Thật khó để nuốt trôi , nhưng tôi đã kìm chế được. Bởi
tôi vẫn đang nhớ rõ cảnh tượng ở chỗ bơm
nước khi nó bị bắt quả tang và rất khiếp sợ. Nó sợ bố tôi vì ông là người
lớn, ông ở về phía tôi và ông cũng đại diện cho luật lệ. Tôi biết rằng trong trận
chiến này, không ai đứng về phía nó , với cái loại vũ khí: luật lệ, sự nể trọng
, mọi thứ ra vẻ chống lại nó. Tôi cũng
hiểu rõ ràng rằng: cái giỏ đồ ăn mẹ biếu, một đàng rất cần thiết, đàng khác làm
nó đau lòng. Ngay cả việc tôi tự nguyện dẫn nó đi tìm bơm nước. Kể cả việc bố
tôi đã không hăm doạ lại còn giúp đỡ. Nó
đã nợ chúng tôi quá nhiều ờ mọi khía cạnh, và nó ghét điều đó.
“ Lillian là một con bò cao
ngạo” . Tôi thầm thì trong miệng, tự hỏi không biết bầu trời có mở ra và Thượng
Đế có đánh tôi chết vì sự bất trung với
gia đình như thế? Tôi thường không thích chị. Nhưng đó chỉ là những chỉ trích nho nhỏ tôi đem chia sẻ với ông anh Edwin trong nhà.
Đằng này, tôi lại thông đồng với Ivan gọi chị
là một con bò cái để hoà giải với thằng bé lạ hoắc này.
Lillian lớn nhất trong
nhà, xinh đẹp nhất. Chị thừa hưởng phần
huyết thống Cobham bên ngoại. Chi gọn gàng, thanh lịch lại có năng khiếu về kim
chỉ. Chị chính là đứa con yêu thích của
mẹ. và tôi e rằng chị bị chứng folie de grandeur (chứng điên cuồng vì sự vĩ
đại), Tôi đọc được câu thành ngữ này trong một cuốn sách ở đầu niên học và đã hỏi bà Thurston ý nghĩa
của nó. Sự cắt nghĩa của bà làm tôi thích thú vì ý tưởng y hệt như câu chữ. Tôi đã dùng
trong nhiều tuần lễ ở mọi trường hợp, từ Lillian đến mẹ, bà King, ngay cả vào con Lady Audley, con
bò đoạt giải trong đàn bò nhà Hayward. Mọi người mệt mỏi vì nghe tôi nói, Cuối cùng, bố cấm không cho dùng câu ấy trong nhà. Nhưng ở
đây đang có một đôi tai mới. Lại chẳng có trường hợp nào xử dụng cái thành ngữ ấy chính xác hơn.
- ‘Cháo” xin phép phải đi về
. - Ivan cố nhái giọng. – ‘ Cháo’ còn mấy
bài ‘đe…àng’ phải ‘tẹp’.
Tôi không thích thú gì. Chọc ghẹo
giọng nói thiên hạ đối với tôi là một tội lỗi. Vả lại, chế nhạo giọng điệu Lillian có khác gì chế nhạo
tôi.
- Ha , ha…tức cười quá hả. –
Tôi càu nhàu làm nó thích thú .
Trước cửa nhà hắn, Daisy May đang đứng chờ:
- Làm gì lâu thế. Mẹ đang cần
nước nấu ăn.
Cô bé bỗng chú ý đến chúng
tôi: ướt nhẹp,lấm bùn, tóc tai rối bù, mặt mũi đỏ lên vì giận.
- Lạy… - Cô bé nhìn chăm chú
vào quần áo tôi nói. - cô không bị phiền phức với bộ dạng như vầy chứ?
Cán cân quyền lợi thình
lình lại nghiêng về Ivan. Tôi nhìn hắn, rồi nhìn xuống quần áo mình. Rõ ràng chẳng ai để ý một chút nào đến hình dạng hắn, nhưng tôi sẽ bị rắc rối to. Những vệt sữa
khô đổ loang lổ trên áo đã đủ tệ, nhưng giờ lại còn ướt sũng bùn đất. bết
cả lên tóc tai. Kinh khủng hơn, tôi thấy
có gì nhớp nháp và nong nóng chảy nơi mũi. Tôi vội hỏi:
- Có phải tớ chảy máu mũi
không?
- ‘ Phải’ .
- Cả hai đồng thanh trả lời tôi nhanh đến mức tôi biết ngay
máu sẽ thấm xuống quần áo đang mặc
trên người.
Thế là xong. Tôi phải chấp
nhận. Mẹ sẽ biết ngay tôi đã đánh nhau. Đó là điều bà không tha thứ. Sữa đổ và bùn đất đã đáng bị la, giờ lại còn
chảy máu mũi… . Một thoáng thương hại, quan tâm cho Ivan đã biến mất trong nỗi
tuyệt vọng của riêng tôi. Bằng cách nào đó, tôi phải đi qua
khu vườn, chui lỗ rào về tới nhà bếp của nhà chúng tôi.
Nhắm mắt lại, tôi nhìn thấy khuôn mặt của mẹ thay đổi từ sững sờ qua giận dữ. Tôi mở bừng
mắt ngay và không dám tưởng tượng tiếp . Cơn hốt hoảng nhường chỗ cho một sự
tuyệt vọng đến bất cần.
- Phải chi tớ đã không đến đây. – Tôi giả bộ nói.
- Chờ một chút. - Daisy
chạy xổ vào trong nhà và xuất hiện mấy phút sau với một cái vại trên
tay. – ‘Đổ ít nước vào đây’ – cô ra lệnh cho anh. – ‘Đừng nhiều quá. Mình phải
chừa lại để xài nếu cái bơm nước ở xa quá như vậy.
Ivan đổ vào ít nước và cô
bé lôi ra một mảnh giẻ:
- Rửa mặt đi. – Cô nói.
- Và coi nè! tớ có mang lược ra đây. Bồ chải đầu lại, rửa mặt mũi xong trông sẽ
không tệ lắm. Chỉ giống như bồ bị trợt
té thôi.
Chưa bao giờ tôi rửa mặt trong một cái vại, và trong giây
phút, bụng tôi quặn đau với cái ý nghĩ chắc gia đình Barshinskeys chẳng hề kỳ cọ
lau chùi chum vại như gia đình tôi.
- Nhanh lên. – Daisy May hối. -
Máu sắp nhỏ xuống áo choàng của bồ rồi kìa.
Bà ngoại Cobham chắc phải đội
mồ sống dậy khi nhìn thấy tôi nhúng cái nùi giẻ vào vại để lau mặt. Máu từ mũi
chảy mạnh hơn và tôi phải lấy giẻ chận nó lại.Mũi ơi, hãy ngưng chảy máu, Tôi cầu
nguyện và Daisy May đã nói đúng. Nếu tôi về nhà trông như vừa mới bị trợt té tại
chỗ bơm nước thì chắc chỉ bị một cái tát với lời trách mắng không dứt. Nhưng nếu tôi về nhà với
cái mũi đầy máu, tóc tai rối tung, mẹ sẽ không tin đó là một cái trợt té.
Trong khi tôi quỳ xuống cạnh
cái vại lau chùi máu rỉ, tôi cảm thấy
Daisy May đang gỡ mái tóc cho tôi. Cử chỉ của cô nhẹ nhàng, gọn gàng và nhanh
nhẹn , hơn cả chị Lillian. Rồi, kinh ngạc hơn nữa, tôi lại thấy có ai khác
đang làm tóc cho tôi ở phía khác, cũng gọn
gàng, nhanh nhẹn không kém.
- Hãy chải phía bên em trước,
Daisy. Bên này anh chải sau. – Ivan bảo
em gái. Như một đội đi cày, hay giống
như bố và ông Hayward khi hai người phải
tự tay vắt sữa bốn mươi con bò, anh em họ gỡ bím tóc ra, chải đầu rồi thắt bím
trở lại. Daisy May hăng hái hỏi:
- Hết chảy máu chưa?
- Chưa!
Ivan đẩy tôi nằm xuống đất. Trong một giây tôi
nghĩ hắn lại muốn đấm tôi nữa, thực ra hắn cố làm cho máu mũi ngưng chảy. Thằng
nhỏ đè chặt nùi giẻ ướt vào hai lỗi mũi
tôi để máu không nhỏ xuống quần áo. Cuối cùng, nó quấn giẻ vào hai ngón tay rồi
nhét vào mũi tôi như hai cái nút. Chúng tôi ngồi đó, cả ba đứa, giữa những rặng
cây tầm ma được soi sáng dưới ánh trăng bàng bạc, không một âm thanh ngoại trừ
tiếng thở phì phò qua miệng của tôi.
- Tớ phải mang nước vào. –
Daisy May nói và biến vào trong nhà mang
theo xô nước và cái vại, bỏ lại Ivan và tôi
với mối liên hệ rời rạc.
Với hai ngón tay vẫn còn
nhét trong mũi tôi, Ivan nhìn một cách hững hờ vào trong bóng tối. Nó lên tiếng,
như là một cuộc đàm thoại xa xôi nào đó:
- Mày không xinh lắm. Nhưng
ít ra không phải là thứ bò
cái phách lối.
- Cám ơn!
- Tao nghĩ đã hết chảy máu rồi.
Hắn buông tay khỏi mũi tôi rồi lấy cái giẻ lau miệng
cho tôi. Thật cẩn thận, tôi đứng
lên. Hắn bèn phủi lưng cho tôi, tháo bỏ mấy
cọng cỏ còn vương trên mái tóc đã được chải gọn gàng của tôi. Sau này nghĩ lại, tôi thấy lạ lùng làm sao với hai đứa trẻ con rách rưới, dơ bẩn,
không giày dép và vô kỷ luật như chúng lại có thể lo lắng cho tôi về nhà với một
tình trạng tương đối tàm tạm như thế, dường
như chúng đã từng quan sát học hỏi những phong tục tập quán của các bộ lạc nhân
ái xa lạ biết trọng ân tình, và chúng muốn tỏ ra là chúng biết thừa luật lệ và có thể thực
hành hữu hiệu bất cứ lúc nào có cơ hội.
Khi tôi bước vào khu rửa
chén bát trong nhà, như sấm sét đã nổ
ngay lên đầu. Có một khoảnh khắc mà mẹ
chắc chắn rằng tôi đã an toàn không sao hết, vì
dù sao bà cũng là người mẹ tốt ,
ngay cả với tôi, đứa con ngỗ nghịch nhất
của bà, rồi cơn thịnh nộ của ngày phải nướng bánh bùng nổ. Tôi đã không bị bạt tai, do tình trạng nhạy cảm của cái ‘lỗ
mũi đang ăn trầu’, nhưng bị kéo thẳng
cánh đến bồn tắm. Áo choàng ngoài bị xé tan quăng vào một cái xô. Áo mặc trên người bị kéo lột khỏi
đầu một cách hùng hổ cùng với tiếng hét: ‘ Bố nó, thằng Edwin nữa, hai người chớ có vào đây. Con nhỏ này dơ bẩn quá. Bố
nó đưa cho tôi một bình nước lớn coi. Đây là kết quả của cái
trò giao thiệp với láng giềng đây. Nhìn con kìa, Sophie! Hãy coi con lúc này thế nào: bùn đất vào tới cả đồ
lót , giày vớ bên trong.’
Rốt cuộc, mọi thứ trên người tôi đều được mẹ cởi ra hết,
cho đến chỉ còn nịt ngực và xì
líp, mẹ mới hoàn toàn hài lòng là mọi thứ ô nhiễm đã được tháo bỏ. Bố nhẹ nhàng chuyền qua cửa một bình
nước nóng.
- Được. Bây giờ con tự tắm rửa
xong rồi lập tức đi vào phòng ngủ.
- Nhưng Edwin và Lillian vẫn
còn đang thức mà mẹ…
Ố là la! Tại sao tôi không nhận ra là nên giữ im lặng? Tôi liền bị ăn đòn. Mẹ đâp cho một hồi không
ngừng tay vào bắp chân, vào vai tôi , một
lối trừng phạt đi ra ngoài hệ thống giáo
dục con cái của bà trong ngày nướng
bánh. Như một hậu cảnh khôi hài hoà nhập với
sự la ó liên tục đó là tiếng kót
két phát ra từ cây đàn harmonium mà Lillian đang thực tập. Cuối cùng, khi cơn
giận của mẹ đã cạn kiệt, tôi được bỏ lại một mình với bình nước, cái khăn tắm,
cục xà bông khử độc để tắm gội và tự hối lỗi. Có lúc, cửa mở ra và ai đó ném
vào chiếc áo ngủ.
Cuối cùng, tôi trở vào phòng
ăn. Bố đang ngồi đọc Thánh Kinh, và mẹ, với bộ mặt như đưa đám ( hay như một trái mận khô), đau lau chùi
các đồ vật bằng bạc. Thường vào giờ này buổi tối, bà đã ngưng làm việc và cùng
đọc Thánh Kinh với bố, hoặc ngồi xuống bên lò sưởi thưởng thức một tách trà. Nhưng hôm nay, dường như tối nay bà
muốn khẳng định hơn nữa, để chỉ ra bằng
cách làm việc rằng mặc cho chúng tôi là
gì, gia đình chúng tôi phải ngon lành hơn bất cứ ai.
- Chúc bố ngủ ngon.
- Con cũng thế, con gái ạ!
Tôi ngập ngừng một chúc rồi
cũng đến cạnh mẹ: - Chúc mẹ ngủ ngon!
Bà chìa ra đôi má cứng ngắc
và khó chịu cho tôi hôn: - Ngủ ngon, Sophie.
Tôi biết là sẽ tốt hơn
nếu tôi cứ lặng lẽ đi về phòng ngủ nhưng tôi không thể, vì trong đầu tôi đang lo lắng cho những người
bạn mới: gia đình Barshinskeys. Cái cách kể lại
chuyện hôm đó của tôi không hoàn toàn là sự thật, nhưng chuyện Lillian nói cũng thế. Và tôi cứ luôn tự hỏi
là chị đã thêu dệt câu chuyện ra sao.
- Họ rất là cảm tạ về mọi
thứ mẹ ạ. Bà Barshinskey , bà ấy gần như
khóc vì sự biết ơn.
Mẹ hít thật mạnh vào trong một lối không tin tưởng,
hay chính xác hơn, không chấp nhận .
- Họ không phải là kẻ bất
lương, hay là hành khất. Bà Barshinskey trông bệnh hoạn.
Đưá con gái nhỏ tên là Daisy May. Cô bé rất dễ
thương. Dù họ không có nhiều đồ
đáng giá…Thật ra đồ đạc còn đang
chuyển đến sau.
Mẹ tôi lại hít mạnh hơi vào lần nữa, tay bà xoa mạnh
cái mảnh đồ bằng bạc như nó đại diện cho bọn bất lương hay mảnh rác bụi
của trần gian..
- Bà Barshinskey, bà ấy
đáng… được kính trọng mẹ à! Bà ấy ăn nói
giống y như mẹ vậy.
Tôi nhận ra ngay đáng lẽ
không nên nói thế. Quả thực, mẹ nín lặng như cái miệng đã biến mất khỏi gương mặt.
- Bà ấy cũng không tỏ ra xuồng
xã. – Tôi vội vã nói thêm. - Ý của con là:
mẹ bảo bà ấy tối nay có thể lấy
nước bên nhà mình ,nhưng bà ấy nói không, cám ơn, họ có thể tự lo không sao cả. Điều đó chứng tỏ bà ấy đáng
trọng phải không?
Và sau khi thấy mẹ không
xiêu lòng và có lẽ chẳng thèm nghe , tôi đưa ra con bài tẩy cuối cùng:
- Bà ấy thực sự đang bệnh nặng
lắm mẹ . Khi tụi con vào nhà thấy bà ấy ngồi dựa lưng vào tường mà mồ hôi mồ
hám tuôn ra như suối ướt đẫm khuôn mặt.
- Đừng dùng những chữ đó
Sophie!
- Dạ! Bà ấy toát mồ hôi.
- Mẹ phải về ngủ đây, con. Chẳng
bao lâu nữa cả nhà lại phải thức dậy làm việc rồi.
- Vậy thì chúc mẹ ngủ ngon.
Tôi cố nán lại ở lanh quanh
cửa , nhưng mẹ không nói gì nữa. Tôi đành lò dò bước lên bậc cấp một cách buồn
bã. Lillian và tôi chung một phòng ngủ ở phía sau nhà. Một mình Edwin chiếm hữu
căn phòng lớn hơn ở giữa. Điều này nghe không hợp lý, ngoại trừ một điều là muốn tới phòng chị em tôi phải đi qua
phòng Edwin trước., và mẹ thật cương quyết cho cái nguyên tắc ‘ con gái cần sự kín đáo riêng tư’ của bà.
Tôi đã có một ý nghĩ hơi bần
tiện là sẽ làm cái giường ngủ của Edwin tầy huầy như một cái bánh mứt táo để trả thù anh ta vì đã không giúp tôi hồi chiều lượm trứng
cho mau, nhưng lúc này chẳng còn tâm trạng ấy. Vả lại, làm giường chiếu lộn xộn
như cái bánh mứt xem ra có vẻ trẻ con
quá khi tôi nghĩ về gia đình
Barshinskeys cùng với nệm giường của họ chỉ là những bao vải dồn cỏ khô.
Tôi đọc kinh tối, thêm vào
lời nguyện cầu cho nhà Barshinskeys và tất cả những ai đang cần sự săn sóc và bảo
vệ. Trong trường hợp mẹ quyết tâm chống
lại họ thì họ cần Thượng Đế giúp đỡ. Khi
Lillian trở về phòng ngủ, tôi giả vờ đã ngủ say. Trong ngày đặc biệt đó, tôi có
rất nhiều điểm cần xác định lại với Lillian, chứ không phải chỉ là đưọc giới
thiệu với nhà Barshinskeys như con bé
Sophie, đứa em gái út của mình. Chị biết tôi chưa ngủ, và tôi biết chị biết điều
đó, nhưng chúng
tôi vẫn nằm im và sau một hồi, tôi cảm nhận phía chị nằm, cái giường
đang rung rinh. Tôi cằn nhằn:
- Chị dám cười nhạo tôi đó hả?
Cái giường vẫn tiếp tục
rung rung. Tôi đưa tay qua chạm vào người
chị. Lillian nằm cuộn người lại với hai tay ôm lấy ngực và cái gối ướt đẫm . Chị
đang khóc. Ngay lập tức . tôi cảm thấy sợ hãi khủng khiếp chỉ vì
đã ghét bỏ chị nhiều quá.
- Ơ này! Đừng khóc nữa .
Lil. Tôi đâu có méc mẹ chị ăn nói thô tục
đâu.
- Đừng gọi tao là Lil. - Chị nức nở.
Tôi đăm đăm nhìn lên ánh
trăng lắng nghe tiếng chị sụt sùi thực
tình không biết làm gì. Chị đã mười bốn tuổi, đã là người lớn. Và tôi đủ thông minh
về sự tiến triển theo năm tháng của con người để hiểu rằng tôi vẫn còn
là một đứa bé. Tôi chưa hề nhìn thấy Lillian khóc trước đó và cũng không biết có thứ gì có thể làm cho người lớn khóc được.
Tôi nghĩ ngợi thật nhiều. Đã từng khóc
khi con thỏ của tôi chết, và còn khóc hơn nữa khi ông nội qua đời, bởi ông là
người ông thân quý và tôi lại là đứa cháu ông yêu nhất. Tôi
khóc khi ngón tay bị gẫy, kẹp ở cái cửa
chuồng gà, lại khóc nữa khi bác sĩ băng
bó chữa trị. Tôi cũng đã muốn khóc
khi nhìn bà Barshinskeys cầm quả trứng?
- Tao chỉ muốn làm cho họ
thích tao. - Chị nức nở. - Nhưng cái thằng
cà chớn đó, nó nhìn tao như tao là thứ rác rưởi. Không thèm có được một câu cám
ơn, dù tao đã cho họ đủ mọi thứ tốt
lành. Họ chẳng biết cám ơn là gì, không một ai trong bọn, không một chút
nào, sau khi tao đã chịu đựng mọi phiền
phức.
Tôi còn quá trẻ để giải
thích cho Lillian hiểu khó khăn như thế nào để được một lời cám ơn,
để diễn tả việc khổ sở ra sao khi phải
nhận lấy giày vớ từ một thùng đồ tế bần
hay được thí cho cái giường ngủ từ một nhà kho chứa đồ cũ. Tôi lại nghĩ rằng
dù có đủ khôn lớn để giải thích những điều trên
cho Lillian hiểu thì cũng chẳng
làm tình thế tốt hơn. Con người Lillian
có một thứ gì thiếu sót. Chị là loại người, theo tôi hiểu, hoàn toàn thiếu vắng
sự cảm thông. Chị không bao giờ cảm nhận được sự suy nghĩ trong đầu người khác.
Từ khả năng hạn hẹp của đứa bé mười một tuổi, việc
mò tìm ra chữ để nói về bản năng và cảm
giác trên thực tế thật khó, tôi chỉ có
thể vỗ vào vai chị và an ủi một cách thảm
hại:
- Nín đi chị. Sáng mai sẽ ổn cả thôi!
Tiếng thổn thức của chị từ
từ tan biến. Và khi ánh trăng đã khuất
qua cửa sổ, chị đã chìm sâu vào giấc ngủ.
Riêng tôi lại vẫn thao thức, và một lúc sau đó, tôi nhận ra mình đang nghe thấy một âm thanh khá
lạ và độc đáo ở đâu đó trong bóng đêm ngoài kia, một cái gì đó khác hơn tiếng
cú kêu hay tiếng những chú chồn già tru
lên khi chạy ngang cánh đồng nhà Tyler mỗi đêm. Tôi nằm bất động. Rồi cửa phòng
ngủ chợt mở ra, âm thanh lạ đó nghe lớn
hơn. Tiếng Edwin thì thào bên tai:
- Sophie, chưa ngủ phải
không? Qua cửa sổ của phòng tao coi cái này.
Cửa sổ của phòng Edwin ngó
thẳng ra khu vườn ngôi nhà ‘tổ cú’ (may mắn thay, phòng của bố mẹ lại ở tít phía
trước). Anh em tôi đứng đó, dán chặt
vào cửa sổ, bởi dưới khu vườn rậm rạp
bên đó đang có một đống lửa lớn,
ánh lửa bốc lên ngọn đỏ ngọn vàng, bập bùng biến những gốc cây già thành những
hình dáng lạ mắt. Nổi bật lên qua ánh lửa bập bùng là ông Barshinskey
trong chiếc áo choàng đen kỳ cục với chiếc
mũ rộng vành. Cây đàn vĩ cầm tỳ vào cằm
của ông, và từ đó phát ra một loại âm nhạc
thật khích động mà tôi chưa từng nghe qua. Đã từng được thưởng thức vĩ cầm từ trước. ban
nhạc thường chơi các bài như : Gathering Peascod hay Stripping the Willow. Ở lớp học thì hát
Thánh Ca hoặc Linden Lea, Old Meg She Was a Gypsy. Còn âm nhạc đây khác hẳn. Nó rên rỉ, não nùng. Nó làm ta muốn giang tay ra gào
thét. Rồi bỗng nó thay đổi giai điệu, biến thành tiếng đập dồn dập mạnh mẽ đến mức tôi tưởng tượng cả thị trấn sẽ thức dậy
nhảy múa. Khi anh em tôi đang chứng kiến và lắng nghe, một khuôn mặt bỗng hiện lên từ phía bên kia đống lửa. Đó
chính là cô gái lớn có cái mũi to trông
như con mèo. Cô ta giơ tay lên khỏi đầu và vỗ theo điệu nhạc. Edwin và tôi, bất
ngờ cũng dậm chân theo. Âm nhạc trở nên dồn dập hơn, cô gái bắt đầu xoay tròn vòng
quanh đống lửa, chiếc váy tả tơi trên người cô bay lượn theo, sát ngọn lửa đến
muốn cháy xém. Cuối cùng, cô buông mình xuống nằm ngửa trên mặt đất, tay chân
vươn ra trong một tư thế thoả mãn, cử động y như một con thú. Tiếng đàn trở lại
giai điệu sầu thương. Edwin tìm bàn tay tôi , những ngón tay của anh em tôi xiết
chặt. Lần đầu tiên trong đời, tôi nhận ra rằng trên cõi đời này, còn nhiều thứ
hơn là chỉ lớn lên, lập gia đình có con
cái và được kính trọng trong xã hội. Còn có
những thứ vĩ đại và những ước vọng khủng khiếp không xác định được, những
giấc mơ không thể thấy hình dạng mà ta vẫn
phải theo đuổi. Tôi thấy mình có lẽ sẽ không bao giờ hài lòng với bất cứ gì
trong cuộc sống của tôi nữa.
Anh em tôi
đứng đó hàng giờ, hay tôi tưởng thế, cho đến khi ông Barshinskey buông cây đàn vĩ cầm xuống và ngọn lửa cũng
đang lụi tàn. Rồi ông quấn mình vào một cái
chăn, phía bên kia cô gái cũng làm giống vậy, anh em tôi mới cảm thấy lạnh và mệt.
- Vào ngủ chung với tao, Soph! - Edwin nói khi hai đứa run lập cập. Và khi bám chặt lấy nhau ,
tôi biết là chúng tôi run không chỉ vì lạnh.
Hai đứa đã vừa nếm trước một liều thuốc cực mạnh: liều thuốc
có tên cuộc đời.
(Xem tiếp chương 2)
(Xem tiếp chương 2)
No comments:
Post a Comment