Chương 4
Đời không là mơ
T
|
ại sao tôi cần một thời gian thật
lâu để hiểu biết hết về con người của ông
Barshinskey? Có nhiều lý do, một số rất thực tiễn , chẳng hạn như việc tôi luôn
luôn đã vào giuờng ngủ trước khi ông say rượu loạng choạng đi về nhà từ quán
ba Con Chồn. Số khác lại chẳng thực tế tí
nào, như chuyện tôi cố tình không muốn biết bất cứ gì có thể phá huỷ cái (hình
tượng) vinh quang của ông.
Có một buổi sáng, Daisy May
đến trường với một vết bầm trên mặt. Lần khác lại chính là bà mẹ cô cũng bị bầm
như thế. Daisy May là người bạn thân nhất, thế nhưng tôi đã không hỏi có chuyện
gì xảy ra, bởi e sợ phải nghe về một cái gì khủng khiếp làm cho tôi giả bộ như không thấy vết bầm tím
đó.
Có một lần , một tiếng la hét
của ai đó trong đêm đánh thức tôi, tiếng
đổ vỡ rồi tiếng người đàn bà gào lên. Tất cả
vọng tới từ căn nhà ‘tổ cú’. Tôi
vùi đầu vào trong gối, cố tránh nghe tiếng
chân bố vội vã đi xuống cầu thang đi ra cửa sau. Chắc chẳng có chuyện gì.
Tất cả những gì tôi biết là
mỗi khi gặp nhau, ông ta đều dành thì giờ cho tôi. Ông có thì giờ kiệu tôi lên vai và cười, rồi kể cho tôi
nghe những huyền thoại về đất nước của ông.
Và ông nhìn tôi , cái nhìn như coi tôi là một con người. Khi ta còn trẻ và thuộc loại tầm thường, điều đáng
kinh ngạc là người khác ít khi nào nhìn
ta như một con người đặc biệt, hay đẹp và hiện hữu. Thường họ chỉ nhìn để coi gương mặt bạn có sạch không, dây giày của bạn có cột gọn ghẽ không. Họ chỉ nhìn xem bạn có nói thật không hay để tìm ra khuyết điểm của bạn..
Không có ai thực sự vui mừng khi gặp bạn. Không ai làm cho bạn cảm thấy rằng chỉ với sự có mặt của bạn thì chính bạn đã là con người tuyệt diệu nhất trên đời. Và đó là điều
mà ông Barshinskey đã làm cho tôi. Ông ta thật rất lôi cuốn, lại có vẻ bí mật và
vĩ đại, và ông ta làm cho tôi cảm thấy tôi là một cô gái ‘cưng’ của thế giới,
người mà ông muốn gặp gỡ.
Đó là lý do ông ta mang lại
nhiều ý nghĩa với tôi, và có lẽ còn hơn thế nữa .Trong con người ông có sẵn một hấp lực thay đổi to lớn, có sức thu hút những tạo vật yếu đuối mảnh
mai hơn, đặc biệt là phụ nữ. Điều mà đã làm cho một người hầu gái bé nhỏ nhút nhát đứng đắn ở tại thị trấn
Dover rời bỏ công việc và gia đình , bạn
hữu của mình để đi lấy một người đàn ông ngoại quốc gần như mù chữ và trông
kinh khủng như thế, lúc này cũng đang có hiệu quả thần kỳ với tôi. Có một cái gì
sống sượng và quê mùa trong con người ông , và khi thấy ông đi chung với cô con
gái Galina của ông, nó trở nên quá căng thẳng
đến nỗi tôi không dám nhìn.
Chính ông ta là người đã nói
đến chuyện say xỉn của mình trước, với một
tính cách khoe mẽ và nó là một phần của một câu chuyện hấp dẫn mà, dù phải chấp
nhận nó, đó cũng là một khía cạnh khác nói
lên cái biểu hiện lớn lao của người đàn ông, một điều gì khác mang tính mạnh bạo
, đầy kích thích và lạ lùng trong con
người ông .
Tôi biết rõ giờ giấc ông đi
và về từ trang trại Hayward và trở nên kinh nghiệm trong cách chờ đợi làm sao để
chúng tôi phải cùng đi qua cánh rừng nhỏ, nơi không có những con gấu, chó sói và đại bàng. Bất
cứ khi nào tôi hỏi về đất nước của ông, tôi sẽ được nghe kể lại về thời thơ ấu của ông
ở một miền quê quanh Novgorod, về những
mùa đông lê thê, mù mịt đầy tuyết rơi và sự xuất hiện bất ngờ của những dòng sông
khi mùa xuân tới. Mọi thứ ông kể về đất nước Nga đều kỳ ảo, dường như đó là vùng
đất huyền bí trong các Chuyện thần tiên của
Gimm hay Diễn tiến hành hương trở
thành hiện thực. Ông kể cho tôi về những cánh đồng hoa hướng dương bát ngát hàng
trăm mẫu, và vào mùa đông, người ta phải di chuyển trên những chiếc xe trượt
tuyết do ngựa kéo. Ông bảo rằng trong mỗi căn nhà đều có một lò sưởi thật lớn,
và cả gia đình nằm ngủ trên mặt lò sưởi để được sưởi ấm suốt đêm. Dường như không
thể tin được rằng có ai đó sẽ rời bỏ một nơi kỳ diệu như ông diễn tả như thế để đến làm việc trong nông trại Haywards. Vì
thế, tôi đã hỏi vì sao ông đến đây.
- Sao hả? Ha, ‘cưng’ ơi! Bởi
định mệnh muốn thế. Bởi ta đây, Nikolai Igorovitch, làm việc trong một nông trường bất động sản lớn có tên Boris Morozov, trông coi ngựa, bò,heo,
và có một ngày trở thành quản đốc công giống như papa của ’cưng’, nhỏ hiểu chứ? Có điều nếu đem so sánh với nó,
thì cái nông trại Hayward này chỉ đáng là
một cái sân nuôi bọ chét. Và rồi vào ngày kế cận,ta đi lưu vong.
- Sao bác phải đi lưu vong?
- Không , không phải lỗi ở
ta. Đó là lão chủ, hay ít ra là con của lão ta. Nó là sinh viên ở Mac Tư Khoa.
Có một hôm đám công an đến nhà tố cáo thằng
nhỏ đi làm cách mạng và đã giết người, không phải là một thường dân mà là một
nhân vật quan trọng. Bọn họ chưa bắt được thằng nhỏ, nhưng họ nói chắc chắn họ
sẽ bắt được và cảnh cáo bọn ta rằng nếu thằng nhỏ có về phải báo cáo ngay. Dĩ
nhiên là rồi nó cũng về nhà, và bọn ta thấy vấn đề còn tệ hơn những gì đám công
an đã nói. Thằng nhỏ giống như một kẻ điên,
gào thét um sùm, và trên ngực có một vết
dao đâm thật lớn. Bọn ta đem giấu nó, cho ở cùng với ta ở một cái chuồng bò. Đám
công an trở lại. Thằng nhỏ giống như một con gấu bị thương quyết ăn thua với những kẻ muốn bắt nó. Còn ta không thể giữ
nó im lặng. Rồi công an mò đến nơi đang trốn, nó thoát ra khỏi tay ta và rồi thật
kinh khủng…thật là khủng khiếp…
Lần đầu tiên kể từ khi quen
biết, ông ta quên sự có mặt của tôi mặc dù là đang nói với tôi. Chúng tôi ngưng
trò chuyện. Ông ta đứng đó tay buông thõng xuống, mắt ngửa lên trời và đăm đăm nhìn về một khoảng cách xa xăm nào
đó. Và ông nói, giọng không còn âm vang rung động nữa, thay vào đó là một nỗi
buồn da diết:
- Bọn công an bắt đầu đánh đập
thằng nhỏ. Nó chống cự lại và bọn chúng muốn giết nó. Bỗng nhiên một cái gì đó bùng nổ trong đầu ta. Thật lạ lùng, bởi thằng
nhỏ này đâu phải người cùng máu mủ với ta. Và ta cũng chẳng yêu thích nó. Nhưng cơn phẫn
nộ đã bùng lên trong ta, và khi ta nhìn lại, hai tên công an đã nằm sóng sượt dưới
sàn dở sống dở chết. Thằng con ông chủ lúc này đã câm nín và bình tĩnh
trở lại. Nó đi tìm cha nó và bảo rằng nó và ta phải bỏ trốn, cả hai người, vì nó đang bị thương tích không thể đi một mình.
Tốt hơn hết là ta nên đi với nó. Và rồi,
- Ông nhún vai lắc đầu. – thế là ta đi
biệt xứ.
- Thế anh chàng chủ của bác
đâu?
- Thằng nhỏ? – Ông gượng cười.
– Ai biết? Bọn ta có tiền, bởi lão chủ
cho con khá nhiều. “Đi đi.”, Lão ấy bảo: “ Trong khi ông đi với nó, tôi sẽ nhờ
bạn bè ở St Peterburg lo bào chữa cho ông. Có đủ tiền để sống và chỉ cần ít thời
gian thôi, rồi ông sẽ về nhà ngay mà”. Thế là bọn ta đi, lúc đầu tới nước Đức,
rồi qua Đan Mạch, một đất nước nhỏ như con thỏ. Rồi bọn ta nhảy lên tàu đi sang
Anh Quốc. Khi mình có nhiều tiền, nhỏ phải hiểu là, minh luôn luôn có chỗ để đi.
Có một ai đó quen biết chú bác hay ông
nội mình, và họ sẵn sàng chào đón mình tới nhà họ. Có một căn nhà rất to ở gần bờ biển, và thằng
con lão chủ có một lá thư giới thiệu của một người bạn tới người bạn khác. Đó là
chuyện thường tình khi ta giàu có. – Ông lại cười.- Và nơi đây, trong căn biệt
thự rất to lớn này cũng có bắn súng, nhưng
không phải bắn bọn công an mà là bắn chim, và tiệc tùng suốt ngày đêm. Mọi
việc thật vui vẻ. Bỗng nhiên thằng con lão
chủ trở lại điên khùng. Nó muốn ra đi. Nó bắt đầu cãi lộn với gia chủ, lăng nhục
một người con gái trẻ.
Ông Barsinskey tạm ngưng ,
rồi tư lự nói:
- Trung thực mà nói, ta không
thích thằng con lão chủ lắm, mặc dù ta đã
cứu hắn khỏi bị công an giết. Nó bảo bọn ta rồi sẽ trở về đất Nga , cho dù không
an toàn. Ta không chắc điều này có đúng không. Vì thế ta bắt đầu thử dùng ít rượu để nó giúp ta quyết định. Không biết nó giúp được
gì không, tuy nhiên ta rất nhớ quê hương. Ta muốn trở về. Ta không thích nơi này,
bởi nơi đây không có tình yêu giữa người
và người. Nhưng tại quê nhà, bọn công an lại đang chờ bắt giữ ta. Rồi ta uống.
Suốt ngày đêm ta tiếp tục suy nghĩ. Rồi ta rời căn biệt thự đi về làng mạc thị trấn nhỏ và tiếp tục uống thêm.
Rồi ta cãi lộn, đánh nhau. Có một ngày thức giấc thấy mình nằm dưới một cái mương,
người lạnh cóng, và ta vẫn chưa biết quyết định phải làm gì. Rồi ta di chuyển
qua làng khác, lại uống nhiều hơn. Lúc đó ta nhiều tiền lắm. Lão chủ tặng cho ta nhiều bởi ta đang săn sóc cho con
trai lão.
Bỗng nhiên ông lại bước đi. Ông
nở một nụ cười và vươn tay ra kéo tôi sát lại bên ông làm ra vẻ ông rất yêu tôi.
- Cuối cùng, khi đã có quyết
định trở về, đó là năm ngày sau đó, ta quay về, thằng con lão chủ đã bỏ đi. Ở căn
biệt thự, họ kiếm cho ta một công việc, nhưng nó không được lâu bền. Ta lại đi
uống rượu rồi bỏ đi tới một nông trại. Câu
chuyện cứ tiếp diễn như thế…
Chuyện như thế. Ông Barshinskey
thành kẻ lưu vong bởi vì năm ngày đi hoang và bị lỡ tàu. Nhưng vẫn có một điều
gì tuyệt vời trong cái con người say xỉn như vậy. Một người ném cả tương lai và vận mệnh
của mình vào ly rượu thì không giống như một kẻ nghiện rượu tầm thường.
Cuộc sống của ông đã như thế
nào kể từ hôm đó? Cô độc trong một đất nước xa kạ, chỉ biết chút ít ngôn ngữ sở
tại, không bạn bè, và có lẽ không có cả quyền được có mặt hợp pháp, trôi dạt hết
nông trại này đến nông trại khác, uống rượu và đàn hát những điệu nhạc thương
nhớ quê hương sầu muộn.
- Thế bác đã gặp bác gái ở đâu?
- Hả? A! Lúc
nào đó khi ta đang làm việc ở một nông trại. Bà ấy ở trong một biệt thự, trông nhỏ nhắn và gọn gàng.
Rồi bà ấy đi theo ta khắp nơi như một con chó
nhỏ dễ thương. – Ông ta nắm tay lại chạm nhẹ vào má tôi. – Bà ấy giống
như nhỏ đó, ‘cưng’ à! Làm sao trên thế giới này có người đàn ông nào có thể cưỡng
lại một người đàn bà như vậy?
Điều ông vừa nói nghe thật
tuyệt. Hằng đêm sau đó, tôi sống trong giấc mơ
biến tôi thành bà vợ ông ấy, và bà ấy là tôi. Tôi đã không nhìn bà ấy như
tình trạng tàn tạ, mệt mỏi lúc này, nhưng tôi thấy bà ấy (hay là chính tôi) được
ông ta chọc ghẹo tán tỉnh, được nhấc bổng lên trời, được kéo sát vào lòng , đi
sánh đôi trong rừng và ở bên nhau suốt đời.
Tôi bắt đầu cuộc sống hai mặt,
mà theo tôi, nó xảy đến với tất cả mọi người trong lứa tuổi của tôi. Một mặt là
kết thân với Daisy May và Ivan, những người bạn mới, lôi kéo họ vào tầm ảnh hưởng
của tôi, chỉ dạy họ cách sống trong làng và trở thành một phần tử của cái khuôn mẫu nhà Willoughbys
chúng tôi đã kết tạo. Mặt khác là của riêng tôi và ông Barshinskey, một đời sống
hoang tưởng nơi ngoài hai chúng tôi, không
có ai hiện hữu.
Niên học kết thúc vào tháng
Bảy, và Lillian đã cởi bỏ chiếc áo khác đồng phục mãi mãi. Trong bộ áo mới in hoa( thật ra không hoàn toàn mới, bởi nó được sửa từ áo của mẹ), chị đi
đến tiệm cô Clark để học làm thợ may. Ngay lập tức chị trở thành xa cách và thật
khó thương .Chị và mẹ thường ở cả buổi tối
trên phòng của mẹ xem xét lại tủ treo quần áo. Tôi có thể lõm bõm nghe những mẩu
nói chuyện đứt đoạn từ trên lầu vọng xuống trong khi đang rửa chén:
- Mẹ coi! Nếu có một áo vét
kiểu ngang lưng mới đi kèm với bộ cánh dài
này, mẹ có thể mặc nó với cái váy xanh…
Nghe những lời ấy, tôi muốn
bùng lên cơn giận dữ. Vào những ngày nghỉ
hè, tất cả chúng tôi được yêu cầu đi tìm
việc làm. Edwin đi thẳng đến trạm xe lửa phụ giúp ông Watkins. Đôi khi anh được
phép kiểm soát vé. Nhưng thường, theo tôi biết, anh làm công việc pha trà cho ông, lau chùi phòng vệ
sinh, đánh bóng cửa sổ và nghiên cứu lịch trình xe lửa. Ông Watkins trả anh hai
Shillings một tuần.
Tôi được làm mỗi tuần thêm
một buổi sáng cho nhà Haywards. Những ngày còn lại thì sẵn sàng cho bất cứ ai cần
một cô bé sạch sẽ đáng tin cậy để phụ hái trái cây và làm mứt. Mùa hè năm ấy, một năm được mùa lớn, trái cây chín rục khắp mọi vườn
trại, và đến tháng Tám lại thêm một một vụ mùa bội thu thứ hai. Tôi có lẽ đã hái
hàng núi nho đen và nho đỏ, dâu tây và dâu
dại các loại. Mọi nhà bếp, kể cả nhà chúng tôi, biến thành cái lò làm mứt. Và
thật cám ơn Chúa, có quá nhiều trái cây đến nỗi Daisy May cũng kiếm được việc.
Ivan lại là một ngoại lệ
buồn thảm và đáng tiếc vào mùa hè ấy. Bố tôi đã cố gắng tìm cho anh ta một công việc.
Mặc dù người ta thuê anh trong việc gặt hái một ít, nhưng không ai chịu nhận
anh làm toàn thời. Vấn đề là anh trông vẫn
như một kẻ ăn xin. Đầu tóc để quá dài, bù
rối và áo quần rách rưới. Nếu anh chỉ cần chịu nhận đồ từ thiện của mẹ gửi
cho, có lẽ anh đã có được một việc . Nhưng anh ta đã đem trả lại tất cả những
thứ mẹ gửi qua cho anh với lời từ chối: “cám ơn, tôi không cần đến chúng”. Trông
anh đã tức cười, giọng nói của anh cũng buồn cười nốt. Thế rồi anh ta bắt đầu đi
lượm củi về chẻ ra bỏ vào bao đem đi bán quanh làng. Đó lại là lúc sai thời điểm
để bán củi nên anh đã không kiếm ra tiền. Chỉ mình ông Hayward có lẽ đã
nhận anh, bởi ông là người chủ trại duy nhất không để ý tới chuyện bọn nhà Barshinskeys là dân ngoại quốc, dơ dáy
bẩn thỉu, cư xử lạ đời. Nhưng Ivan từ chối không chịu làm ở đó, kể cả công việc
gặt hái mùa màng.
Hàng năm, trong ngày lễ tiệc
trong vườn nhà xứ, tôi được phép đến khu
vườn của nhà xứ để hái trái cây làm món tráng miệng cho buổi tiệc. Bà Lovelace không trả tiền công , nhưng tôi được tha hồ ăn các loại trái
cây ưa thích và quả thật được nhìn ngắm
bên trong khu vườn đã là điều đáng giá. Đó là khu vườn đẹp nhất trong làng, thật
bao la và có nhiều thảm cỏ chăm sóc dọn dẹp sạch sẽ và những rừng dâu dại xen lẫn
với những bức tượng. Mảnh vườn dành cho nhà bếp cũng rộng lớn, những luống dâu cùng những hàng cây cherry có lưới bao phủ để chim không phá trái. Tôi xin phép cho
Daisy May cùng vào, và sau khi kiểm tra
vệ sinh mặt và tay, cô được phép vào.
Ngày hôm đó thật nóng, cửa
nhà bếp được để mở. Khi mang vào rổ trái cây đầu tiên, chúng tôi có thể thấy
Galina đang cắt bánh và bơ. Đằng sau cô là ông Hope-Browne đang chuẩn bị bê một
giỏ ly chén mang ra ngoài cửa.
- Giờ đi hái tiếp đi! - người
bếp chính của bà Lovelace nói, tay trao
ra cái rổ trống không. - Ta cần nhiều hơn
thế nữa.
Hai đứa tôi trở lại vưòn
nho và biến vào những lùm cây. Những con
ong bay liệng trên không và ánh nắng mặt trời
toả ra mùi nho ngọt đến váng người. Daisy May nói:
- Bồ có thấy là đám mụn trên
mặt ông Hope-Browne lúc này đỡ hơn trước không?
Tôi đã không để ý tới, nhưng
tự hứa là sẽ nhìn mặt ông trước khi rời khu vườn nhà xứ. Tôi bảo:
- Sau khi xong đám này, mình sẽ đi sang phía khu trồng dâu dại. Ở đó mình
có thể nhìn thấy ông ta đang xếp đặt đồ trên bãi cỏ.
Ông Hope-Browne lật đật ra
vào. sửa chữa mấy cái giá ngựa, xếp đặt
trò chơi thảy vòng. Ông ấy nghe thấy tiếng chúng tôi cười khúc khích sau những luống dâu và ông tất tả
chạy đến.
- Được lắm! – Ông nói thật tử
tế. – Hai cô bé đang đùa giỡn ở đó, phải
không?
Ông ta không có vẻ đỏ mặt, và Daisy May nói đúng. Các mụn trên mặt
ông trông đã đỡ hơn trước.
- Dạ! cám ơn ông Hope-Browne.
- Tốt, tốt. Còn ai đây? Ồ, đúng
rồi! cô em gái của Galina đây mà.
Nói xong ông lại đỏ mặt ghê
gớm và quay trở về lo xếp đặt cái trò chơi
thảy vòng.
- Bà chị tôi đi ra kìa!. - Daisy May
dửng dưng nói.
Cô gái bước ra từ cánh cửa sổ lớn tay ôm một lố khăn trắng
trải bàn. Nếu bà chị Lillian của tôi nghĩ giờ chị đã thành người lớn do chị đã
ra đời làm việc, thì chị nên ngắm nhìn Galina. Chiếc áo đầm sọc trắng xanh cô đang
mặc và cái khăn tạp dề trên người cô mặc trông chẳng giống cái tạp dề. Cô làm cho nó trông
giống như cái dây choàng được cột chặt cho eo cô thon lại. Tay áo cô xăn lên để
lộ ra đôi cánh tay tròn lẳng mịn màng, Và dưới cái mũ trắng là bụm tóc trông có
vẻ nặng nề đến đỗi người ta tự hỏi làm
sao cần cổ của cô có thể mang nó nổi
- Trông cô ta thật là…khác hẳn…
- Tại bởi chị ấy ăn mặc đàng
hoàng và sạch sẽ . – Daisy nói.
Nhưng không phải chỉ có thế.
Cô gái còn có điều gì khác nữa, về cái cách thức cô trải khăn bàn ăn ra, cô nghiêng
người tràn qua cái giá ngựa kê bàn để một chân của cô giơ cao lên khỏi mặt đất và cặp mông tròn trịa nhô cao lên
trên không. Cô dùng cánh tay của cô vuốt thẳng khăn bàn, rồi ngoái cổ ra
sau nhìn ông Hope-Browne qua bờ vai.
Lúc này, ông không làm một
cử chỉ nào để tiếp tục việc xắp xếp trò chơi. Ông ta đứng như trời trồng, trên tay
vẫn còn cầm mấy cái vòng , mắt nhìn sững Galina. Thật lạ thường, gương mặt ông
trắng bệch.
- Đi chỗ khác đi. - Daisy May nói. - Đừng ngó. Tớ ghét phải nhìn Galina giở trò khêu gợi đó với đàn ông. Mình đi đi nào!
Nhưng tôi không thể bỏ đi. Daisy May ngồi thụp xuống bụi dâu dại dường như
với một tiếng nấc nghẹn thoát ra trong cổ
họng. Còn tôi đứng đó, khổ sở thay
cho ông Hope-Browne. mặt ông trắng toát
và có ý lo sợ, đặt mình vào vị trí của ông
với một điều gì đó tôi không hiểu được nhưng làm tôi cũng sợ hãi theo.
Galina xoay người lại và chậm
rãi bước về phía ông. Và cô bước đi giống
như đang khiêu vũ. Tôi không nhìn thấy mặt cô, nhưng thấy rõ mặt ông ta, màu sắc
thay đổi hàng chục lần, miệng ông hơi hé
ra và cặp mắt lên xuống theo điệu bộ lắc
lư của thân hình cô gái. Rồi cô đứng yên ngay trước mặt ông, sát đến nỗi tôi không
biết hai thân mình có chạm nhau không. Ông ta không cử động nhưng tôi nghe có
tiếng ậm ừ của ông phát ra từ trong cổ họng.
Đoạn, Galina từ từ giơ tay lên vuốt, bẻ cong mũ xuống
rồi kéo ngược lại, di động đôi vai như chúng đang bị cứng vì mỏi. Rồi ông
Hope-Browne đưa tay lên về phía cô, lại kêu rên một tiếng và quay đầu bỏ chạy.
Mấy cái vòng hoopla trên tay ông rơi vung vãi trên cỏ, và ông ta vấp té ngay
trước ngưỡng cửa. Galina chờ một giây lát,
rồi cô quay mặt đi trở lại với mấy cái bàn,
trên môi nở một nụ cười, cái cười của nhà
Barshinskeys và cô gái dường như bùng lên với sự kích thích đang bị dồn nén.
Cô nhìn thấy tôi ngay tức
khắc và khi chạy tới gần tôi nụ cười tan biến dần. Tôi nhận ra ngay cô đã mất bình
tĩnh , tôi bỗng nhiên cảm nhận điều này qua
khuôn mặt bừng bừng của cô, vì thế tôi quay đi định bỏ chạy. Tuy nhiên,
cô đã bắt được, nắm lấy hai vai lắc tôi
thật mạnh:
- Mày làm gì ở đây, đồ nhóc con hỗn xược kia? – Cô la lên.
- Không có gì!
Cô tiếp tục lắc mạnh tay:
- Có , mày có. Mày đi do thám.
Tao không thể làm cái gì trong làng này mà người ta để tao yên sao?
- Tôi chẳng thấy gì hết!
Cô buông tôi ra và nhanh chóng quay đi.
- Tao ghét chỗ này. – Cô giận
dữ nói, đưa tay bẻ gẫy một nhánh dâu dại.
mặt mũi buồn rầu. tỏ vẻ bất mãn. Bàn tay cô bị gai đâm trúng và ngón tay bị chảy
máu. Cô đăm đăm nhìn nó như bị mê hoặc.
- Cái “con mẹ già chuyên xen
vào chuyện thiên hạ” của mày đã nhét tao
vào đây và tao ghét chuyện đó.
- Chị không cần phải ở lại đây.
– Tôi gào lên một cách thách thức, Niềm
tự hào của gia đình bị tấn công, con nhà Willoughby phản công lại. - Chị
có thể trở về với vị trí trước đây của chị, sống như một kẻ lang thang, đi trộm
cắp và đi ăn xin, ngủ bờ ngủ bụi quanh đống lửa. Nếu chị không thích ở đây, chị
không phải ở lại.
Đột nhiên cô gái yên lặng,
mỉm cười một cách chậm rãi và dâm dật, bàn tay ve vuốt chiếc áo đầm trên người.
- Tạm thời thì thích hợp để tao
ở lại. – Cô nhẹ nhàng nói. – Tao học ở đây đưọc ít nhiều điều. Tao sẽ không nghèo
túng suốt đời. Khi nào đến lúc tao sẽ ra đi. Tao có thể chịu đựng ở đây cho tới
lúc đó. Tao nghĩ tao sẽ làm được. Đôi
khi tao thấy tao không thể nào ngưng khóc, tao ghét nó quá chừng. – Cô ta lại
nhìn tôi trừng trừng. - Ông ta không đối
xử với tao như đồ rác rưởi. Ông ta nói chuyện với tao như nói với một con người.
Còn tao cũng đối xử tốt với ông .
Thái độ của cô lại thay đổi.
Tôi chưa bao giờ quen thuộc với tốc độ
thay đổi từ trạng thái nóng giận qua một
thứ êm đềm như mơ ấy. Bây giờ cô hướng ánh mắt qua khu vườn rau quả và dịu dàng nói:
- Tao cũng thích tử tế và dễ
thương với mọi người…
Tôi hoàn toàn không hiểu ý cô muốn nói gì, nhưng có cảm giác chúng có
liên quan tới việc cô đang làm gì đó cho ông Hope-Browne đáng thương.
- Chị hãy để ông Hope-Browne
yên. - Tôi lên tiếng. – Hãy để ông ta yên.
Vậy là đủ.
- Tại sao? Tao thích ông ta.
Mày không thấy mấy cái mụn của ông đã khá hơn sao? Tao cũng giúp đỡ người ta vậy,
mày thấy đó…
Và cô lại cười, làn môi đỏ
căng ra một cách khoái lạc để lộ hàm răng trắng đều :
- Và chính mày cũng không có
quyền nói gì cả. Tao biết thừa mày luôn luôn chờ đợi bố tao ở trong khu rừng nhỏ mỗi ngày ra sao.
- Câm miệng!
Tôi lấy tay bịt tai lại và
bỏ chạy, vẫn còn nghe tiếng cười lớn của cô. Không thể hiểu nổi bất cứ gì cô gái
nói, nhưng cô thật là bẩn thỉu và khủng hkiếp.
- Bồ không sao chứ, Sophie?
- Để tôi yên! - Tôi qua mặt Daisy May và chạy ra khỏi khu vườn
đi về phía cánh đồng cỏ nhà Tylers. Mọi
sự đã thành bẩn thỉu, và chiều tối hôm đó, tôi không chờ đợi ông Barshingskey ở
khu rừng nhỏ.
Sau đó tôi tránh đường, không
thể gặp ông mà không nghĩ đến hình ảnh
Galina đến với ông Hope-Browne. Tôi không
muốn nói về ông và về Galina ở tại nhà xứ. Mỗi khi mẹ bắt đầu nói về đề tài ấy,
tôi lảng ra khỏi phòng.
Mùa hè đối với tôi đã trở nên
chua chát, tôi không còn hứng thú làm những
thứ mà trước đây ưa thích, dù là đọc sách,
làm việc ở nhà Haywards, chơi đùa với thú vật hay đào xới mảnh vườn nho nhỏ mà bố đã
cho riêng tôi để chăm sóc theo ý. Chẳng phải là lỗi của ông Barshinskey. Đó là
lỗi của tôi. Còn ông vẫn như thế, nhưng
bây giờ tôi đã có những ý nghĩ về ông không được trong sạch. Tôi cảm thấy tôi
phải cố đừng yêu thích ông nhiều quá.
Ông ta có giúp tôi, nhưng
hiệu quả lại càng làm tôi thêm rối loạn và khổ sở hơn. Lần đầu tiên tôi thấy ông
say rượu.
Sau khi đã thấy ông thực sự
tệ hại , tôi nhận ra sau đó rằng cái lần
đầu ấy, ông không quá say. Lúc đó là vào giờ ăn tối ngày thứ Bảy, và vì lý do gì
đó, ông đi thẳng tới quán rượu sau khi rời nông trại Hayward. Luôn luôn
cách uống rượu của ông theo một khuôn mẫu: không uống vào ban ngày, và hầu như chỉ uống vào các đêm thứ
Sáu, thứ Bảy. Chúa Nhật. Nhưng bởi vì tôi đi bộ về nhà trên con đường lớn, lối đi
về xa hơn để tránh gặp ông, bỗng nhiên
thấy ông loạng choạng chui ra từ hàng rào rồi đứng nghiêng ngả trước mặt tôi. Có
lúc ông té xuống đường mương, nằm đó một lúc. Khi tôi cố vội bước qua, ông gọi
tôi bằng tiếng Nga. Vừa gọi ông vừa ra dấu, rồi cười lớn và trỗi dậy đi theo
sau tôi. Tôi không sợ. linh cảm ông chưa quá say đến độ hại tôi, nhưng ông tiếp
tục la gọi và vẫy tay. Rồi ông nghiêng người qua ói mửa một đống.
Làm sao tôi đã có thể nghĩ
rằng ông tuyệt vời? Làm sao Galina có thể nói ra những lời nói đó. Tôi vắt giò
lên cổ mà chạy, vẫn còn nghe tiếng ông la gọi phía sau:
- “Cưng” à! Quay lại. Nhỏ
Sophie à! Đừng sợ…đừng sợ ta…đừng sợ Nikolai này. Quay lại đi ‘cưng’…Quay lại…
- Có chuyện gì thế, Sophie?
Mẹ hỏi.
- Không có gì.
Nhưng mẹ tôi biết, và biết
rằng lần này không phải vì phiền muộn hay vì tôi hỗn hào hay cãi lại. Bà nhìn thẳng vào mắt tôi rồi vội vã bước ra
đường. Khi trờ về, môi mẹ bạnh ra với sự ghê tởm:
- Đồ điên. – Bà lẩm bẩm.- Không biết mình phải chịu đựng thứ này đến
bao lâu nữa?
Điều đó không đúng. Tôi không
muốn mẹ nói động đến ông ta, mặc dù…
- Hắn đáng bị roi ngựa quất
lên người. – Bà rít lên. - Đập cho một trận rồi quăng xuống hồ.
- Không phải thế!
Mẹ trừng mắt nhìn tôi:
- Đừng ăn nói với mẹ kiểu đó
chứ, con gái?
Tôi tự hỏi là rồi mẹ sẽ giảng
cho một bài luân lý nghe muốn đầy ắp lỗ tai, nhưng bà đã không làm thế, chỉ lặng
lẽ bảo tôi về phòng ngủ, Tôi lên giường nằm, không khóc nhưng cảm thấy đau buồn
đến chết đi được.
Đêm đó mẹ giúp tôi ngủ yên với một loại kẹo bột có pha
rượu và bảo qua thứ Hai, anh Edwin và tôi đi dọn dẹp cái
kho phía sau nhà có đến ba năm rồi chưa
làm. Mẹ không phải là người nhạy cảm, nhưng
bà làm gì cũng có ý thức.
Ký ức phai nhạt, sự nhục nhã
cũng được chôn kín đôi chút, tôi đã có thể đi ra ngoài gặp gỡ mọi người mà không thấy xấu hổ. Tuy nhiên tôi vẫn không
thể đối mặt với ông Barshinshey. Bất cứ khi nào thấy ông từ xa, tôi vội vã trốn
hay bỏ chạy.
Rồi có một ngày, khi tôi trên
con đường từ nông trại Hayward đi về nhà , ông từ trong hàng rào bước thẳng ra chận
ngang trước mắt, không nói gì. Ông nhìn
tôi thật nghiêm túc, cúi đầu chào , trao
cho tôi một bó hoa hồng dại và cúc trắng
được cột lại bằng một cọng cỏ khô. Thấy tôi không chịu nhận, ông đưa lại
gần hơn và lắc nhẹ nó:
- Làm ơn. – Ông nói với giọng thật trầm buồn hối tiếc, và vì ông quá chân thành, tôi đành
phải nhận .
- Ta không được gặp cô bé nữa, sao vậy nhỏ Sophie?
- Cháu… cháu quá bận.
- A ha! Ta nghĩ không phải vậy
đâu. Ta nghĩ nhỏ đang giận ta.
- Ồ, không! Không phải thế.
Cháu…bận thiệt mà…
- Ta nhớ nhỏ lắm, ‘cưng’ à!
Rồi ai sẽ lắng nghe chuyện ta kể?
Rồi ông thu mình ngồi xuống
bên cạnh với bàn tay to lớn nắm lấy tay tôi. Gương mặt của ông sát gần tới mức bộ râu chạm vào má tôi gây nhột
nhạt.
- Sophie nè! Đôi khi ta thật ngu đần. Ta cứ suy nghĩ vẩn vơ, rồi
ta đi tìm rượu uống. Dường như đó là cách
duy nhất để quên suy tư Hôm nay ta rất buồn bởi vì ta nhận ra rằng nhỏ Sophie
không còn thích gặp ta nữa, và ta chẳng hiểu tại sao.
- Cháu rất là… - Ông lấy tay
bịt miệng tôi.
- Ta không muốn biết ‘cưng’ à!
Lòng ta tràn đầy nỗi đau vì con tim ta cho ta biết nhỏ không yêu ta.
- Ô, Không, thưa bác. Điều đó không đúng.
- Ha! – Ông thình lình bật đứng dậy, ôm lấy tôi nhấc
bổng lên trời. và nụ cười Barshinskey ấm áp tuyệt vời đã trở lại trên gương mặt
ông làm cho ánh mắt ông rực lên những tia nóng bỏng, vui vẻ hạnh phúc. Ông bật
ra tiếng cười vang và dùng trán vuốt ve gương mặt tôi. Đoạn ông chui vào hàng rào
trở lại. lôi tôi đi theo. Chúng tôi bắt đầu sánh bước trong cánh rừng của”chúng tôi”.
Màn ảo thuật lôi cuốn cũ của
ông bắt đầu hữu hiệu: sự gần gũi thân mật, sức mạnh của con tim, sự an toàn của
tấm thân vĩ đại của ông. Ồ! Những gì
Galina đã nói, hay đôi khi ông say xỉn thì có vấn đề gì chứ? Đây mới là hiện thực: người bạn đặc biệt của riêng tôi đang
mỉm cười với tôi và yêu thích được gặp tôi.
- Giờ để ta chỉ cho nhỏ coi cái này.
Từ trong một thân cây nghiêng
đổ, ông lấy ra một cái hộp nhỏ bằng gỗ có khoét trên nắp hộp một cái lỗ không lớn
hơn cái đồng xu. – “Coi đây…” - Ông nâng nó lên rất nhẹ nhàng. Từ trong đó, tôi
có thể nhìn thấy thân hình nhỏ nhắn tròn trịa với cặp mắt sáng như cườm của một con chim bạc
má màu xanh. Con chim đã làm một cái tổ bằng rong rêu vừa khít đáy hộp, và không
tỏ ý sợ hãi rời bỏ ổ trứng, chỉ giương cặp mắt nhỏ bé sáng rực về phía chúng tôi.
Ông Barshinskey lại đặt cái hộp xuống thật
nhẹ nhàng. Ông hứng chí nói:
- Năm nào ta cũng làm chuyện
này. Đóng một cái hộp nhỏ với cái lỗ tí hon, luôn luôn có những con chim bé xíu
đến làm tổ. Có năm là một con hồng tước. Ở quê nhà ta cũng làm thế, kết quả cũng
như nhau. Lúc nào, những con chim bé nhỏ cũng đến.
Tôi không nói gì chỉ nắm chặt
tay ông.
- Bây giờ ta đi làm việc. Ngày
mai ta lại chờ nhỏ ở đây trong khu rừng này nhé!
Và mọi việc đã trở lại gần
như cũ. Gần như, chứ không hoàn toàn, bởi có những câu hỏi không có lời giải đã
hiện lên trong trí óc tôi. Tại sao ông dành nhiều thì giờ cho tôi mà thực tế ông
không màng đến Ivan chút nào, hay tỏ ra chút thương yêu nào với cô con gái Daisy May, dù
chỉ một chút khả dĩ chấp nhận được? Làm sao ông có thể cung cấp chỗ trú ngụ cho
một gia đình chim bạc má nhỏ bé nhưng lại để bà vợ ông chui rúc trong căn nhà ‘ tổ cú’ bỏ hoang? Những câu hỏi rồi
lại bị gạt qua một bên vì tấm chân tình
quá đam mê của tôi. Tuy nhiên đã có một sự nứt rạn trong sự tôn thờ đó, nó chỉ
nhỏ như sợi tóc nhưng có lẽ không thể nào hàn gắn được.
Công cuộc biến cải gia đình Barshinskeys của mẹ vẫn tiếp diễn, và cái chiến thắng lớn
lao trong đời bà đã đến vào một ngày Chúa
Nhật khi Bà Barshinskey và Daisy May bước theo đoàn người gia đình Willoughbys
tiến vào sảnh đường hội lễ.
Daisy đã theo học các lớp Thánh Kinh buổi chiều với tôi Thực sự, tôi không thể nào hiểu được có ai muốn đến học khi họ không cần thiết phải đến. Nhưng
Daisy May thường đứng thơ thẩn ở trước cổng nhà cô với sự biểu lộ mơ ước đó mỗi khi tôi đi ngang qua trong bộ áo dài vải mút sơ lin mỏng và chiếc nón rơm đội trên đầu. Có một ngày Chúa
Nhật, tôi nói với cô bé với một giọng không tin tưởng gì:
- Coi nè Daisy! Bồ không thực
sự muốn đến lớp học Thánh Kinh , phải không?
Khuôn mặt tròn trĩnh của cô
trở nên đăm chiêu. Một biểu lộ cô luôn luôn có khi muốn làm một cái gì vô cùng nhưng không biết làm sao để mở lời hỏi.
- Tớ chẳng có bộ cánh nào ra
hồn để mặc cho ngày Chúa Nhật cả. – Cô nói.
- Có gì đâu. Không phải ai cũng
có. Bồ cứ mặc bộ đồ vải thường ngày là được.
- Nhưng tớ không có nón để đội.
- Mẹ tớ sẽ kiếm cho bồ một cái.
Cô bé đã không đi vào tuần
lễ đó vì cái nón cần sửa sang lại chút ít. Nhưng tuần lễ sau đó cô bé đã có đủ
thứ bao gồm cả một đôi găng tay của chị
Lillian trông còn khá tốt vì vết mạng vá phía sau khó nhìn thấy. Nhưng cũng chính
đôi găng này mà Daisy May làm tôi bối rối.
Cô bé cứ đeo vào lại cởi ra, cẩn thận kéo chúng ra từ đầu ngón tay rồi từ từ đưa lên cao. Đoạn cô gấp chúng lại
để lên đùi, để yên nó chừng một lúc rồi lại lấy ra đeo vào tay. Thật là một
sự phân tâm làm ông King cứ đưa mắt
chiếu cố về phía cô hoài.
Khi đến bản Thánh Ca cuối cùng,
tôi phản ứng:
- Làm ơn để đôi bao tay yên đi,
Daisy May. Cứ làm như bồ chưa bao giờ có
chúng trong đời í!
Vừa dứt lời, tôi đã cảm thấy
hối hận vô cùng. Sự trầm tĩnh của Daisy May bỗng nhiên tan biến. Cái sự điềm tĩnh
đã mang cô trôi dạt đến sảnh đường này với
giấc mơ vời vợi: ăn mặc trang trọng với mũ trên đầu, găng đeo tay và cầm theo cuốn Thánh Kinh bìa đen cũ thật lớn. Cô đã lắng nghe, quan sát và làm
theo mọi người, (cũng xin) cám ơn ông King, đã không mời cô đọc một đoạn sách
Thánh, bởi việc đọc sách của cô thật dở. Nói chung, mọi việc không quá tệ, chỉ
trừ chuyện đôi găng tay.
Lúc này nghị lực của cô tan rã. Người cô co cụm
vào đến như còn phân nửa , trông như một cô gái nhỏ tầm thường vô dụng
trong bộ đồ cũ của tôi và cái nón , đôi bao tay
sờn rách của Lillian. Ngay khi bản Thánh Ca và bài cầu kinh vừa dứt, cô
bay ra khỏi sảnh đường chạy nhanh về nhà.
- Daisy! Chờ tớ với. Bộ bồ
phiền giận sao?
Ôi , cái đám nhà Barshinskeys
này, sao họ dễ khích động và đáng chán đến thế! Vừa khó chịu, vừa kiêu hãnh, lại
thất thường kỳ cục. Tuy nhiên tôi thấy mình cũng thật tệ. Vì thế tôi cố chạy thật
nhanh và đuổi kịp cô:
- Tớ xin lỗi, Daisy. Nhưng đâu
có gì mà bồ phải có phản ứng mạnh thế. Có gì là quan trọng đâu. Chỉ là một
buổi học hỏi Thánh Kinh nhàm chán thôi mà.
- Bồ không hiểu được.
Có thể tôi đã không hiểu, nhưng lại nghĩ mình hiểu.
Hoá ra, đó là đôi bao tay đầu tiên Daisy May có, và cái gì đầu tiên mà không
quan trọng?
- Daisy! Bồ trông thật xinh
với chúng. Tớ nghĩ là mình ghen tỵ với bồ vì bồ có đôi bàn tay đẹp.
Tôi khá tự hào về điều ấy,
tự hào về việc tôi đã nói thế và chẳng để ý đến nó bao nhiêu. Daisy May thực sự có bàn tay dễ thương, không
đẹp như của bà ngoại tôi nhưng không thô nhám như của tôi.
- Không phải vì đôi bao tay.
Bồ không hiểu đâu.
- Tớ không hiểu cái gì ,
Daisy?- Tôi hỏi một cách yếu ớt. Cô ngưng
lại, , lắp bắp một chút để tìm lời:
- Bồ không thể hiểu cái tâm trạng
như thế nào khi mình chẳng thuộc về bất cứ gì. Luôn luôn đứng ở bên lề:
bên lề nhà trường, bên lề buổi học Thánh
Kinh, bên lề cả ở bữa ăn, nói chung ở bên ngoài mọi thứ. Tớ chẳng hội nhập dính
dáng vào đâu cả.
Cô bé bắt đầu sụt sùi khóc. Cô chỉ mới khóc một lần trước đây, khi Brenda
Jefford muốn cướp tấm cạc của cô. Việc cô
khóc làm tôi bối rối kinh khủng. Mặc dù tôi thường hiểu tính của cô và cả Ivan
khá nhiều. Lần này tôi chịu thua. Tôi chậm rãi nói:
- Daisy! Cô có nhiều thứ. Không
đâu, tớ không nói về buổi học hỏi Thánh Kinh hay những chuyện như vậy, Nhưng bồ
có ông bố của bồ.
Tôi nghĩ về việc ông ta có
tôi và tôi có ông, cô có quyền gặp gỡ ông mọi nơi mọi lúc, không cần
phải như tôi len lén trong khu rừng chờ ông đi vắt sữa trở về.
- Bồ có ông bố của bồ bất cứ
khi nào bồ muốn. Khi ông chơi vĩ cầm ,bồ tha hồ thưởng thức. Được ông kể cho
nghe về đất nước Nga và quê hương của ông. Bồ là Daisy May Barshinskey, và bồ
khác lạ với bất cứ ai trong làng.
- Tớ mệt vì khác lạ ! – Cô bé gào lên. - Bồ không hiểu sao? Tớ không muốn là người khác
lạ.
- Nhưng ông bố của bồ…
- Bố tớ là ai chứ? Ông chẳng
là cái quái gì cả.
Cô lại bỏ chạy. Lần này tôi
không cố đuổi theo nữa. Chẳng có gì để nói.
Tôi thích cô, nhưng cô bé không có phần trong cái thế giới bí mật tôi
chia sẻ với bố cô. Nếu phải chọn giữa hai người, tôi đành phải chọn ông ta.
Tôi suy nghĩ thật lâu về việc
nên làm gì. Cuối cùng, đã xin bố tôi một mảnh giấy trong bàn viết của ông. Thời
buổi ấy, giấy má còn đắt đỏ, chúng tôi không được phép xử dụng thường xuyên, chỉ
trừ dịp viết cám ơn sau tiệc sinh nhật và các ngày lễ Giáng Sinh. Tôi đã phải
giải thích với bố rằng tôi muốn viết một
lá thư cho Daisy May và vì có điều quan trọng nên cần phải là một lá thư đàng hoàng. Và tôi đã
phải viết bằng chữ in, bởi việc học của
cô tụt lại khá xa tôi e cô gặp khó khăn
trong việc đọc chữ viết thường.
Daisy thương mến!
Tớ viết thư này để nói rằng bồ có thuộc về
một nơi bởi vì bồ là người bạn thân nhất của tớ. Và mẹ của bồ cũng nói với mẹ tớ
là bà ấy thật chẳng biết làm gì nếu không có bồ .
Bố tớ, người đã làm nghề chăm sóc bò sữa từ
khi mười hai tuổi cũng nói rằng ông bố của bồ có một lối chăm sóc bò tốt nhất mà
ông được biết. Bố tôi nói ông ấy có thể
là người quản đốc của bất cứ nông trại nào như ông đã từng làm ở trên đất nước
Nga nếu ông muốn.
Thân ái chào,
Sophie Willoughby
Tôi bỏ lá thư vào một phong bì
gọn gàng, dán lại rồi đem qua bỏ vào hộp thư nhà ‘tổ cú’.
Thật khó khăn để suy nghĩ làm
sao cho Daisy May lấy lại niềm tự tin. Ở
trường, gần như môn học nào cô cũng dở. Cô cũng không đặc biệt xinh đẹp. Chẳng
có gì để người khác ghen tỵ hay thán phục.
Gia đình cô là một cảnh bi đát ngoại trừ ông bố, và cô dường như lại không coi ông
ra gì. Nhưng ít nhất, những điều tôi nói đều là sự thật, và phần hay nhất là sự kiện ông ta là người thợ nuôi bò sữa giỏi
nhất trên đời mà bố tôi đưọc gặp.
Và thật kỳ lạ . Danh tiếng của
ông bắt đầu được loan truyền quanh mọi nông
trại. Ông Hayward, người từng bị chỉ trích là đã thuê mướn một người vô trách
nhiệm, bỗng có cớ để ‘lên mặt’. Bố tôi có kể ra nhiều điều, nhưng phần lớn tôi nghe được khi đi làm việc ở nông trại
đó..
Tất cả các con bò đều yêu
thích ông. Điều này rất quan trọng trong một nông trại sản xuất sữa, bằng không,
lượng sữa sản xuất sẽ giảm. Ngay cả con Lady Audley tính khí bất thường, thường
chỉ có mình bố tôi có thể lại gần nó cũng
khoái được ông Barshinskey vắt sữa cho nó.
Ông lại biết chính xác cách thức nào dứt sữa cho một con bò khi nó gần
đến ngày sinh đẻ. Đối với bò, có một khoảng
thời gian sáu tuần lễ rất khó khăn cho
chúng trước khi đẻ con. Người ta phải biết cách ngưng vắt sữa làm sao để chúng
cạn sữa đi để chúng đủ sức và con bê
trong bụng mạnh khoẻ. Người ta ngưng sữa
từ từ, có nghĩa là không làm cạn kiệt mỗi
lần vắt, và thỉnh thoảng lại cần bỏ sót một buổi. Tuy nhiên, nếu chừa lại nhiều
sữa quá, con bò có thể mắc bệnh viêm vú.
Và điều khó khăn là nhận ra được lằn
biên giới nhỏ như sợi tóc giữa việc
chừa sữa lại sao cho khỏi bị nhiễm bệnh và vắt cạn kiệt nó. Theo lời bố tôi, ông
Barshinskey dường như có cảm giác nhạy bén biết chính xác phải làm sao và vào lúc
nào. Đôi khi, vào giữa buổi sáng , ông quay trở lại với một con bò và vắt kiệt sữa nó ra vì ông linh cảm có chuyện không hay sắp đến. Và khi có chuyện,
giống như con Tansy hôm nào, ông đã có thuốc trị hầu như ngay trước khi chỗ sưng vì nhiễm bệnh
xuất hiện. Và lần nào thuốc trị bệnh cũng công hiệu. Kể từ khi có mặt ông ta ở
nông trại, không một con bò nào mắc bệnh cả.
Có điều lạ là người tài giỏi
như ông lại không là quản đốc công của một
nông trại lớn nào. Nếu vậy thì Daisy May đã có cuộc sống tốt hơn trong một căn
nhà đàng hoàng với tài sản trong tay.
Lá thư có lẽ đã làm mọi việc
ổn thoả, bởi lần sau hai đứa tôi gặp nhau , cô bé đã trở lại bình thường như những
ngày cũ, và dù cô không nhắc nhở gì đến lá thư, tôi đoán nó đã được cất chung với đôi bao tay và quyển sách hoả xa của
Edwin cùng những thứ giá trị khác thuộc về riêng của cô.
Dù sao, Daisy May cũng đã trở thành một thành viên thường xuyên của lớp học Thánh Kinh, và mẹ tôi, hứng chí
với dấu hiệu tốt về diễn tiến tôn giáo này, bà bắt đầu chăm chú hướng bà Barshinskey vào việc nên “đi đến một nơi nào đó trong ngày của Chúa”.
Bà ấy lúc đầu nói bà không còn mặt mũi trở lại hội thánh Thân Hữu của bà vì bà
quá xấu hổ. Hơn nữa, chẳng có một phòng hội nào của hội thánh này ở gần làng ,
nguyện đường gần nhất cũng ở tận Redhill, nơi mà bà không đủ sức đi tới cả về
thời gian lẫn tiền vé xe di chuyển. Mẹ tôi lại tiếp tục thuyết giảng về hội đường của chúng tôi, về việc cần làm gương mẫu cho đàn
con. Cuối cùng bà Barshinskey cũng đồng ý rằng, nếu phải chọn giữa Giáo Hội
(Anh Giáo) và hội thánh Anh Em, bà sẽ
theo mẹ đi đến hội đường.
Khi cái ngày Chúa Nhật trọng
đại ấy đến, Mẹ cùng tôi đi qua nhà để
dẫn dắt bà Barshinskey theo. Tôi nghĩ mẹ biết cái tâm lý yếu đuối của người
hàng xóm, bà ta có thể đào nhiệm vào phút
chót nếu không có mẹ động viên. Và bởi mẹ đã đến, chị Lillian và anh Edwin cũng
đi theo luôn. Bố thì luôn luôn đến nguyện đường sớm khi đến phiên ông giảng đạo
để chuẩn bị trong lời cầu nguyện thầm lặng.
Chúng tôi gõ cửa và như thường
lệ, không có ai trả lời. Và rồi từ đám cây bên hông nhà, Galina và ông bố bước
ra. Tôi thấy mẹ tôi như sững người lại.
- A! Cả nhà qua chơi. Quý vị
qua thăm viếng?
- Không! - Mẹ lạnh tanh nói .
– Tôi đến để đưa bà nhà và Daisy May đi
nghe lời của Chúa. – Bà nhìn chăm chú vào Galina: - Công việc của cô ở nhà xứ thế nào Galina?
Galina cúi nhìn xuống đất vẻ
khiêm tốn:
- Dạ được. Cám ơn bà.
- Cô thỏ thẻ với giọng một đứa trẻ.
Bất cứ khi nào hai cha con
cô đi chung, người ta đều thấy họ trực tiếp đụng chạm vào nhau. Ông ta đưa tay ra choàng lấy vai đứa con gái,
còn cô dựa vào bố với cái đầu ngả vào ngực
ông.
- Galina yêu quý của tôi! Nó
đã có cả buổi chiều hôm nay dành cho papa nó, nhưng nó phải trở lại và đi đến nhà thờ bây giờ. - Ông ta
hếch gương mặt lên trong một kiểu diễn tả
vừa bất thường vừa ra vẻ chế nhạo. – Nhà thờ! Ái dà!
Ở cái đất nước này nó cũng lạnh lẽo và nặng nề như bất cứ gì khác. Không
như ở đất Nga. Tuy nhiên… - Ông ta quay
qua nhìn mái tóc đen bóng bẩy của cô gái và cười thật ngọt ngào đến nỗi tim tôi nhói lên vì ghen tức. – Tuy
nhiên, cái nhà thờ này, đó là cái giá mà
nó phải trả cho một cái giường ngủ êm ái và những bộ quần áo đẹp đẽ.
Cái mũ của mẹ rung lên.
- Ông Barshinskey, ông phải
biết, chúng tôi không thuộc về Giáo Hội (Anh). Nếu Galina có tâm hồn đi đúng đường, Chúa
sẽ có cách nói với cô. Không cần
thiết ai cũng thờ phượng trong cùng một cách.
Mẹ thật gan dạ khi nói như
vậy, trong khi bà thực sự nghĩ rằng phương
cách thờ phượng của Anh Giáo không thích hợp tí nào: chỉ là chuyện đứng lên, ngồi xuống, rồi đọc những
bài trong một cuốn kinh sách được con
người viết ra chứ không từ Thiên Chúa. Sự thành công của bà trong việc đưa được
Galina vào phục vụ trong nhà xứ quả thực có phần hoen ố bởi sự kiện cô gái đã trao linh hồn cô vào tay Giáo Hội. Bà
Lovelace rất cứng cỏi trong vấn đề này. Nếu một hành vi từ thiện được ban phát
cho một cô gái lang thang gây lỗi lầm, linh hồn của cô gái ấy phải thuôc về Giáo
Hội Anh Giáo (của bà) chứ không phải thuộc
Hội Thánh Anh Em.
- Galina chỉ tôn thờ tôi. – Ông
Barshinskey nói thật đơn giản. Còn Mẹ và Lillian giật sững người vì lời nói phạm
thượng đó.
- Nhưng xin mời ! Tôi xin đưa mọi người vào nhà. - Nói
rồi ông dùng chân đá vào cánh cửa để mở
ra và dẫn chúng tôi vào nhà.
Daisy May đã sẵn sàng và đang đứng đợi. Trên đầu là cái mũ của tôi, đôi
bao tay của Lillian và cuốn Thánh Kinh trong tay. Cô bé hơi có dáng điệu kẻ cả. Bởi hôm nay cô không
phải người thật mới mẻ. Cô đã từng đến
nguyện đường trước đó và đã biết ít
nhiều. Chỉ bà mẹ của cô là người hoàn toàn mới .
Bà mẹ cô ra vẻ luống cuống và bối rối, bà đang cố cài thêm kim vào tóc mà nó cứ bung
ra ở hai bên. Bà run run nói:
- Đã gần xong. Chỉ còn đội nón
lên nữa. Nón của mẹ đâu rồi? Daisy, đi lấy
nón cho mẹ được không? Như ở trong phòng ngủ thì phải? Mời ngồi. Ivan , con đứng lên nhường ghế cho
Lillian.
Trong nhà bếp chỉ có ba cái
ghế. Ông Barshinskey ngồi một cái với
Galina ở trên đùi ông, Mẹ tôi ngồi một cái.
Ivan , đang ngồi ăn, cau có đứng lên nhường
ghế cho cô “tiểu thư” Lillian ngồi Khi
anh chàng qua mặt Lillian, tôi thấy chị chu mỏ nhăn mũi. Lòng tôi đã xốn sang vì
Galina và ông bố của cô, giờ càng thêm rối loạn hơn. Ivan quả có hơi nặng mùi một chút. Với sự khuyên nhủ của mẹ, bà Barshinskey và
Daisy May đã tự xếp đặt một hệ thống tắm giặt cho họ, nhưng Ivan đã hoang dại còn cứng đầu không nghe lời. Bà
mẹ lại quá yếu đuối trong việc chỉ dạy con. Quần áo anh ta lại không chịu giặt giũ thường,
lỗi ở anh chứ không do bà mẹ và đứa em gái. Nhưng thật là một cử chỉ tàn nhẫn ác
độc khi khịt mũi với anh ta.. Nếu tôi có thể chịu đựng được, tại sao Lillian lại
không chứ? Chị đứng đó trong bộ đồ toàn
màu hồng thẳng nếp. Rồi chị đưa chiếc khăn tay có mùi nước hoa lên che miệng và ho.
Tôi vừa tức giận với chị vừa
sợ hãi, bởi tôi biết tính nóng giận của Ivan ra sao. Anh ta có thể cho Lillian một cái tát chẳng hạn
hay một câu chửi rủa, hay ít nhất cũng bay ra khỏi nhà làm mọi người bối rối.
Thật kinh ngạc khi anh không hề làm những chuyện đó. Một nụ cười
mỉm chậm rãi tỏa ra trên gương mặt của
anh, và anh chăm chú nhìn Lillian. Đoạn
anh giơ một cánh tay áo tả tơi của anh lên
che miệng và ho, giống hệt cử chỉ của Lillian. Màu hồng của chiếc áo chị mặc từ
từ lan dần lên cổ.
- Tớ chưa ăn xong bữa. – Anh nói một cách cục
cằn thô lỗ, rồi đến ngồi lên mặt bàn
ngay trước mặt chị, miệng còn đang nhai mẩu bánh mì với bơ. Vừa nhai anh vừa nhìn cô với đôi mắt
đảo từ chiếc nón chị đội tới bộ cánh chị đang mặc , tất cả được bao phủ vóì những
nụ hồng. Anh ta nhai bánh mì mà miệng mở
to cho thấy thức ăn ở trong. Rõ ràng anh
ta cố ý làm vậy. Bởi tôi biết tất cả mọi người trong nhà Barshinskey , kể cả
Galina , có cử chỉ khá thanh lịch trên bàn ăn. Đó là một trong một số
ít thứ mà bà mẹ của họ dường như đã truyền
cho họ. Cuối cùng, Lillian cũng không thể chịu đựng nổi:
- Tôi ra ngoài chờ.
Chị nói lí nhí, rồi rảo bước
nhanh ra khỏi căn bếp chật người, qua phòng
giặt đi tới cửa sau. Ivan quay qua ném cho tôi một nụ cười sáng rỡ, nhưng tôi
quá phiền toái và chẳng sung sướng với cả
hai người để trả lời anh..
Lần đầu tiên tôi thấy cái
gia đình này gây khó chịu cho chúng tôi
như thế nào và cỡ bao nhiêu. Mẹ tôi, bà chỉ nổi giận ngoài mặt khi họ không làm
đúng như những gì bà bảo họ làm, nhưng với
ông Barshinskey, sự say sưa, hành vi
lang thang vất vưởng, bản tính
thiếu trách nhiệm với gia đình, coi thường
cái cốt lõi xâu xa của nữ quyền , những điều này hẳn phải ở trong thâm tâm
của mẹ. Tệ hại hơn nữa là bố tôi không bao
giờ lên án ông ta, chỉ có ngợi ca về điểm mạnh của ông ta trong nghề chăn nuôi bò sữa. Tôi biết là trong con người mẹ có một phần vui thích để được nhìn thấy ông ta bị roi đánh vào người rồi bị cột vào đuôi một chiếc xe thổ mộ dong quanh
làng như cái hình thức những kẻ ngoại tình
bị trừng phạt thời xa xưa.
Và đối với tôi thì Galina cũng
nên chịu chung hậu quả như thế . Chỉ nhìn
thấy cô thôi là tôi đã ghen tức. Lại còn thấy cô đi chung với ông bố thì sự đau
khổ quá sức chịu đựng. Làm sao ông ấy luôn luôn
vờ tôi ra khi có cô ấy bên cạnh?
Bây giờ tôi bắt đầu thấy rằng
Ivan có tài gây ra phiền lụy cho
Lillian. Anh ta chẳng phải làm gì. Chỉ mỗi việc có mặt thôi và chị Lillian không
thể nào vờ như không thấy. Còn Edwin? Tôi nghĩ
anh có cảm tình với Daisy May, tôi nghiệp cô và muốn tử tế với cô bé. Đối
với Ivan, anh chia sẻ một sự quen biết thất
thường và không hứa hẹn. Họ không ghen tỵ nhau và cũng không tỏ ra đặc biệt ưa thích nhau . Đó là một trong những
mối liên hệ thoải mái mà tôi để ý thấy đàn
ông thường hay có. Khi nói chuyện với nhau, ít khi nào họ nói đến cá nhân, thường
đại loại như nhìn thấy một chú chồn chạy
qua hay tìm được một ổ ong mật… Đúng vậy, không hề có những liên hệ căng thẳng
giữa hai người con trai.
Tôi liếc nhìn qua Edwin, anh đang đứng giữa mấy bậc cấp dẫn vào
phòng. Trông anh vừa chán nản vừa không tự nhiên. Tôi đoán sự bối rối này bắt nguồn từ các hành vi cư xử
của Galina và ông bố. Đối với một đứa
con gái, cô ấy quá lớn để còn ngồi trong lòng bố, lại còn thủ thỉ thì thầm những
bí mật gì vào tai ông mà cả hai cùng cười
cợt ra vẻ thích thú. Ông còn luôn tay vuốt
ve mái tóc của cô và dùng trán cọ nhẹ vào
má cô như ông đã từng có lần làm với tôi.
- Tôi cũng ra ngoài chờ. –
Edwin nói.
Daisy May trở lại với cái nón
của bà mẹ. Tôi bỗng thấy một làn sóng đầy cảm kích cho cô bé ngó tầm thường mà can đảm và đáng yêu, chẳng bao
giờ làm buồn lòng ai, ngoại trừ có lẽ con nhỏ Brenda Jefford.
- Chúng ta đã sẵn sàng rồi mẹ!
– Cô ngoan ngoãn nói và bà mẹ thoáng rung động để con gái đội nón cho bà. Hai mẹ
con trông thật giống nhau, chỉ là Daisy có phần dũng cảm hơn.
Trong khi đi đến sảnh nguyện
đường, tôi nhận thấy rằng bệnh tật đã làm cho bà Barshinskey dường như mập ra.
Có lẽ tôi không nên biết về những chuyện như thế và tôi cũng khá lờ mờ về chuyện
gì đã xảy ra, nhưng tôi đủ khôn ngoan để nhận ra rằng nếu chẳng may mà người đàn
bà đáng thương này phải nuôi nấng chăm sóc
cho một đứa con thơ trong căn nhà ‘tổ cú’ vào mùa đông lạnh, thì hầu hết mọi sự
lo lắng và công việc sẽ đổ dồn vào tay cô bé Daisy.
Nhưng tối nay là một trong
những thắng lợi của cô bé. Cô dìu mẹ đi vào nguyện đường, và tự xum xoe như một
chú công xoè cánh khi một hay hai cô gái trong cùng lớp học Thánh Kinh mỉm cười
gật đầu với cô. Cô đã thuộc về một nơi chốn.
Bố tôi ngỏ lời đặc biệt chào
mừng “ hai người chị em mới” (vào gia đình hội thánh Anh Em). Mặc dù tôi nghĩ bà
mẹ có vẻ mặc cảm, đối với Daisy May, rõ ràng cô thấy sung sướng cũng gần như lúc
cô nhận được tấm cạc đầu đời. Không còn đùa giỡn với đôi bao tay nữa. Với cô bé,
khi có cơ hội, cô học hỏi thật nhanh.
Buổi gặp gỡ cầu nguyện đêm đó
rất dài. Nhiều người đi lên đọc lời cầu
nguyện và chỉ mình ông King cũng đã năm lần làm cho tôi thấy thật là làm khổ
cho chúng tôi, vì đây là buổi cầu nguyện thứ ba trong ngày, có lẽ làm khó cho cả
Thiên Chúa nữa. Tôi nhìn đồng hồ: Đã tám giờ rưỡi, vẫn còn một số người chưa đến
phiên . Tôi có cảm giác ganh tỵ với những người may mắn thuộc Giáo Hội Anh Giáo,
Họ khởi sự hành lễ sớm hơn, nhưng không bao giờ lâu quá một tiếng đồng hồ. Bàn chân tôi bắt đầu tê dại . Cái cổ áo hồ cứng đã cọ xát làm một vài chỗ trên cổ tôi đau. Tôi
đưa tay lên nới rộng nó ra. Mẹ trừng mắt nhìn. Rồi cuối cùng bố cũng đứng lên đọc
lời chúc phúc cuối. Tuy nhiên chưa phải là đã xong.
Sau buổi cầu nguyện là việc gặp gỡ chuyện trò, cũng tẻ
nhạt như buổi lể. Tối nay, mẹ ở trong trạng
thái rạng rỡ siêu việt. Bà Barshinshey tồi tàn và đáng được tha thứ kia chính là
một món quà giải thưởng của mẹ, được dẫn đến giới thiệu từng nhóm. Đâu đâu bà cũng được vỗ về, nói năng lịch sự
và cho bà những gương mẫu đáng quý mà bà nên noi theo. Tôi nhìn bà và bỗng nhận
ra rằng bà chẳng thực sự để ý đến việc được bảo trợ dẫn dắt hay cả sự hội nhập như
Daisy May thường luôn khắc khoải. Bà là một người đàn bà hoàn toàn suy nhược
nay tìm được một người đàn bà khác mạnh mẽ, không bao giờ cạn nguồn năng lực, một
người đàn bà mà từ đó bà có thể nương tựa.
Tôi một phần thương xót bà, phần khác lại thấy xấu hổ và có chút khinh rẻ với cái hoàn cảnh tồi tệ của bà. Chính bà cũng
có lỗi để cho gia đình trở nên tệ hại như thế. Đáng lẽ bà phải chiến đấu chống
chỏi lại cuộc sống của mình. Đáng lẽ bà
phải có cảm giác khi phải mặc bộ trang
phục bỏ đi của mẹ và để cho những người đàn bà tốt bụng khác dẫn dắt khuyên nhủ.
Bà chỉ tỏ ra lúng túng.
- Mẹ à! Chúng ta không về nhà
bây giờ sao?
Dường như mẹ tôi không nghe
tôi nói. Bà đang có một “vòng hoa chiến thắng” đeo trên người, và không ai có
quyền cướp nó.
- Mẹ à! Bộ mẹ không nghĩ là chúng ta nên về nhà sao? - Lần này bà nghe
tôi nói.
- Chúng ta sẽ về khi mẹ xong
việc và thấy hài lòng ,Sophie. - Rồi bà cảm thấy rằng một đứa trẻ bực bội mà cứ
bám lấy váy mẹ sẽ làm bà dễ nổi giận, bà nói thêm:
- Mẹ không cấm con và Edwin
về nếu hai đứa muốn. Bố mẹ sẽ về ngay khi xong công việc ở đây.
Dĩ nhiên, Lillian ở lại với
mẹ. Daisy May thì bị khó xử, do dự trước
việc ở lại với người mẹ mới được kính trọng hay đi về với Edwin. Cô hết
nhìn chúng tôi lại nhìn qua bà mẹ, rồi quyết định ở lại với mẹ. Sau đó tôi mừng
vì lựa chọn của cô.
Edwin và tôi rời sảnh đường
và bắt đầu lang thang xuống hành lang
Cobham đi về phía nhà thờ. Cái hành lang này
nghe nói có ma. Hai bên hành lang là các bức tường cao và dưới đất, mỗi
bước chân như có tiếng vang bọng được
cho rằng đến từ cái đường hầm trú ẩn nằm phía dưới. Không ai có chứng cớ nào chứng tỏ nó hiện hữu, nhưng nghe âm thanh vọng lên như nó có thật. Chuyện kể rằng mấy trăm năm trước có tay bá
tước Cobham nào đó ác độc đến nỗi hắn lo
sợ rằng một trong những nạn nhân của hắn có ngày sẽ đến tìm hắn trả thù. Vì thế hắn
cho xây một hành lang bí mật từ lâu đài
của hắn dẫn tới nhà thờ, hy vọng rằng hắn có thể đến đó để xin tha thứ tội lỗi
trước khi bị giết. Nhưng một trong những kẻ thù ghét hắn khám phá ra cái đường hầm này và bít nó lại,
ngay ở dưới gốc cây thủ tùng, nơi Daisy
May và tôi đã giấu áo khoác và giày trong buổi đi học đầu của cô bé. Nắm xương
tàn của hắn nghe nói vẫn còn nằm trong đó.
- Nhìn những con dơi kìa!
Edwin nói.
Tôi không muốn nhìn đám dơi.
Tôi chỉ muốn lướt thật nhanh qua đoạn hành lang này trước khi trời thật tối. Tiếng vang từ những bước chân của
hai đứa nghe rõ mồn một.
- Để anh kể em nghe một câu
chuyện mà em chưa biết. – Edwin nói bằng một giọng nói luôn luôn báo trước một
mẩu tin tức không vui gì. - Anh cá là em
chưa biết tối nay chính là kỷ niệm cái đêm tên bá tước hung ác Cobham bị săn đuổi
trong đường hầm.
- Em không tin anh…
- Thật mà! Tụi anh học những điều về lịch sử ở các lớp trên mà bọn nhỏ các em chưa biết. –
Anh nói với một cử chỉ rất trang trọng đến
nỗi tôi biết chuyện đó phải có thật.
- Đêm nay là đêm hắn bị ba chàng
hiệp sĩ đến từ lâu đài Fosborough đánh đuổi
theo đoạn hành lang này. Và khi hắn nghĩ là đã gần tới được nơi trú ẩn thì bị chặn lại bởi một bức tường đá, tuyệt đối
không thể vượt qua.. Ba chàng hiệp sĩ đuổi bắt kịp và hắn đã bị họ thắt cổ đến chết. Thắt cổ…, thắt cổ…,thắt cổ…
- Anh lấy tay vỗ vào mặt tôi và cứ lập đi lập lại chữ thắt cổ.
- Đừng nói nữa, Edwin. – Tôi
la.
- Rồi em biết họ làm gì tiếp
không?
- Em không muốn biết. – Tôi
bịt tai lại và bắt đầu chạy qua hành lang.
- Họ chặt chân hắn rồi bỏ hắn
lại đó. Và rồi họ đi ra bít luôn đường hầm ở phía đầu bên kia. Thắt cổ…, thắt cổ…,gào
thét…,thắt cổ…
Vào lúc đó tôi đã chạy tới
cuối hành lang và khi gần tới gốc cây thủy tùng, có vật gì đang lay động, một vật
có hình dáng thấp, tựa như một người đã bị chặt cụt chân. Tôi quay đầu chạy ngược về phía
Edwin.
- Đằng sau gốc cây đó! – Tôi
thì thầm. - Có cái gì khủng khiếp lắm.
Như có một người di chuyển bằng cặp đùi, ngay gốc cây thuỷ tùng.
- Đừng có ngu ngốc thế,
Soph! - Edwin trả lời. Nhưng thình lình
giọng nói của anh không còn vững chãi như trước. Khi tôi đến sát gần, anh không
đẩy tôi ra.
- Đó là cái…quái gì thế? –
Anh hỏi.
- Nó thật khổng lồ, thở phì phò thật ghê rợn. Và em chắc
là thấy có máu chảy nữa.
Edwin không đáp lại. Anh bắt
đầu quả quyết bước đi dọc theo hành lang.
- Mày lại tự doạ nạt mình với
những trò ma quỷ hiện hình ngu ngốc, Sophie. – Anh nói to.- Mày không tin những chuyện vô nghĩa thằng anh
mày kể cho mày nghe.
Chúng tôi bước tới cuối hành lang và anh ngừng lại trong giây
lát. Đoạn anh nhảy vào phía sau bụi cây dùng tay đập vào nó lia lịa:
- Đi ra . Ra ngoài ngay. Dù
mi là ai.
Đối lại là một sự im lặng
tuyệt đối, và trở nên bạo dạn hơn, anh bắt
đầu lùng kiếm quanh những cành cây.
- Có gì đâu. – Anh chọc ghẹo.-
Chỉ là một con thỏ hay chồn gì đó thôi.
- Không , không phải vậy.
Ngay khi Edwin quay đầu bước
đi, có một thứ di động ngay phía bên kia
sân nhà thờ, nơi cánh cổng dẫn ra tới con đường và trạm xe lửa.
- Đằng kia kìa. – Tôi thì thào,
và Edwin nắm tay tôi, chúng tôi rón rén đi vòng qua khu nhà thờ to lớn, ẩn mình dưới những cột trụ,
phóng qua những mộ bia và những thân cây. Edwin
đã tới cánh cổng trưóc tôi, và khi tôi tới nơi, anh đẩy ngược tôi trở lại.
- Mọi việc ổn rồi, Sophie!
Không có gì phải lo lắng. Mình về nhà thôi.
Anh có vẻ rất bình tâm, và giọng của anh cũng
thay đổi, thành giọng nói người lớn, cố ý ngăn
tôi biết cái anh vừa thấy.
- Đó là cái gì?
- Không có. - Anh bình tĩnh nói. – Không có gì hết. Đi về.
Anh xoay người
dùng thân mình xô tôi ngược trở lại. Tôi biết là cái mà anh nhìn thấy chẳng
phải ma mãnh hay quái quỷ gì cả, nhưng cái mà anh nhìn thấy rõ ràng
gây cho anh cảm giác khó chịu.
- Em muốn coi đó là cái gì vậy?
- Nghe lời tao, Sophie! –
Anh cướp lời.- Sao lúc nào mày cũng hỏi
nhiều thứ quá? Để mọi chuyện yên, hiểu
chưa? Để yên mọi chuyện. - Anh cất cao tiếng và giọng nói có vẻ vỡ vụn đi chút ít. Thường thường khi xảy
ra như vậy tôi thấy tội nghiệp anh. Thật chẳng vui thích gì khi nghe một giọng
nói, dù trầm hay bổng , nhưng mình không
biết phải làm gì với nó, nhưng trong lúc này tôi đang rối loạn và thấy thiệt thòi. Đã có mẹ và Lillian hay lên giọng lấn áp tôi,
giờ lại thêm Edwin cũng bắt đầu .
- Em muốn làm gì mặc kệ em. – Tôi nói một cách bất
chấp và rồi vặn người chui qua cánh tay anh chạy bổ ra ngoài đường.
Vừa kịp lúc thoáng thấy bóng họ trước khi họ chạy
biến mất ở góc cuối đường. Hai người đàn bà, một trong hai tôi chắc chắn đó là Galina qua bụm tóc rất to cột sau gáy cô.
- Chỉ là Galina đi với một
người đàn bà khác. – Tôi nói với
Edwin.- Em không biết tại sao anh phải làm
ra vẻ bí mật quan trọng về chuyện đó…
Edwin không trả lời.. Tôi hỏi
tiếp:
- Người đàn bà kia là ai?
Người ấy không đội nón trên đầu, anh có thấy điều ấy không?
- Sophie! Sao không câm cái miệng lại giùm tao.
- Sao họ thấy mình lại bỏ chạy?
Anh nghĩ họ đã làm gì để phải bỏ chạy
khi chúng ta tới?
- Câm họng!
- Ai mà lại không đội nón nhỉ?
Người đàn bà ấy mặc một chiếc áo dài đen và…
Một hình ảnh chợt thoáng qua trong trí tôi: Galina với búi
tóc đồ sộ trên thân hình mảnh mai của cô. Bên cạnh là một hình dáng khác trong bộ aó dài đen thuôn đuột và không đội nón. Thốt nhiên, hình
ảnh đó tự giải mã ra thành một thực tế chấn động.
- Sao lại… - Tôi thở mạnh.- Hoá ra chẳng có người đàn bà nào khác. Đó là ông Hope-Browne trong bộ áo thầy tu.
Edwin đứng quay lại đối diện
tôi, sự giận dữ hay bức xúc của anh đã hoàn toàn bốc hơi.
- Nhìn đây, Sophie! Anh nghĩ tốt hơn em không nói chuyện này với bất cứ
ai. Tốt nhất là chúng ta giả vờ như không thấy gì.
Tôi im lặng. Ý tưởng tội lỗi về cái tôi thấy vừa rồi vẫn in sâu vào lương tâm của tôi.
- Em có cảm tình với Daisy
May và cả với ông bố cô ta phải không?.
Vậy thì, anh nghĩ tốt hơn đừng nói chuyện này với bất cứ ai.
- Em cho rằng họ chỉ là đang đi với nhau từ nhà thờ về nhà xứ. – Tôi chậm rãi nói.
Edwin không đáp lại. Có lẽ
anh không cần trả lời. Nhà thờ đã tan từ
lâu, có đến hơn một tiếng rưỡi đồng hồ
trước đó. Cho dù mới tan, thì cũng không thể chấp nhận việc ông Hope-Browne sánh bước chung với một người
giúp việc gái trong nhà xứ. Và tại sao họ lại bỏ chạy? Vậy chắc chắn là có một
hành động xấu xa nào đó đằng sau gốc cây. Thật kỳ cục, kỳ cục và khó chịu.
Edwin xoay mặt tôi đối diện
anh. Trong bóng tối nhạt nhoà, anh trông già hẳn đi.
- Em còn quá nhỏ để hiểu chuyện,
Sophie! – Anh nhẹ nhàng nói.- Em không
biết chuyện nó thực hư như thế nào. Anh thực ra cũng thế. Nhưng anh biết là tốt hơn, có lẽ chúng ta đừng kể cho bất cứ ai nghe.
- Được rồi.
Kể ra anh đã sai. Tôi không
còn quá nhỏ để hiểu biết. Tuy tôi không hiểu chính xác chuyện gì đã xảy ra, như
không hiểu rõ làm sao bà Barshinskey bỗng
nhiên có thể sinh ra một em bé. Nhưng tôi biết cái cảm giác vụng trộm trong người
hai kẻ chạy trốn. Tôi biết về tội lỗi, về
sự kích thích và về sợ hãi bị bắt gặp. Cho dù là cái gì cũng thật đáng sợ, đáng
sợ hơn cả bóng ma của bạo chúa Cobham với cổ bị thắt và chân bị chặt cụt.
Chúng tôi trở về nhà, cả
hai anh em lòng nặng như chì, như bị áp bức bởi một điều gì đó được đã đi vào đời sống, rất khó chịu và chưa thể
nhận ra. Một điều gì mà tôi như chưa sẵn
sàng đối phó. Còn Edwin? Tôi nghĩ anh còn
bị ảnh hưởng nặng nề hơn tôi. Bởi từ sau ngày đó anh em tôi bắt đầu xa cách nhau. Chẳng phải có gì dữ dội hay chán chường, chỉ là vấn đề
anh đã bước qua khỏi lằn ranh giới giữa thời ấu thơ và tuổi trưởng thành. Anh vẫn
luôn luôn tử tế với tôi, nhưng kể từ ngày ấy giữa anh em tôi luôn luôn có một hố
sâu ngăn cách.
(Xem
tiếp chương 5)
No comments:
Post a Comment