Chương 5
Một ngày lễ hội
N
|
hiều năm sau, Daisy May cho tôi
biết đỉnh điểm của đời cô chính là ngày lễ đăng quang của vua Edward VII. Tôi cảm thấy vui hơn khi cô nói
thế và rồi tôi bắt đầu nhớ lại. Tôi nhớ
rằng khắp nơi đầy hoa anh túc, những cánh
đồng ánh lên màu vàng tươi và đỏ rực, nơi chúng
đắm mình trong đám ngũ cốc, và dọc theo hai bên bờ những con kinh được bao phủ
bởi ánh lửa bập bùng làm cho cái
nón của bà Barshinskey như mịt mù trong
khói.
Tôi nhớ vào một buổi sáng, khi nhìn ra từ
khung cửa sổ trong phòng ngủ, cây mận trong vườn dầy đặc những con chim hồng tước,
phải đến ba bốn chục con. Tôi lại nhớ đến cánh đồng đối diện khu nhà thờ được dựng
lên một cái lọng che với những chiếc bàn dài kê trên giá ngựa được bao phủ khăn bàn bằng giấy trắng tinh và tất cả phụ nữ trong làng đang xếp
ra những chai nước chanh. Tôi cũng nhớ lại đã vui sướng như thế nào trong buổi sáng tháng Tám đó. Cái
cảm giác có một điều tuyệt vời sắp đến, và cho đến cuối ngày, khi điều tuyệt vời đã xảy đến, tôi nhận ra rằng cái ngày nhà vua
đăng quang này có thể cũng là đỉnh cao của
đời tôi.
Có những
trò chơi và các cuôc thi đua giải trí trước giờ ăn tiệc. Ông Hope-Browne trong chiếc
áo vét tông sọc và cái mũ rơm, tất bật chạy lên chạy xuống, khai hoả phát súng
khởi đầu các cuôc thi và dường như ông không
có tình trạng bối rối xấu hổ như thường
ngày. Ông cha xứ và bà Lovelace ngồi dưới
cái lọng che uống trà trò chuyện với đám quý tộc, có lẽ vì vậy anh chàng mặt mụn tỏ ra thoải mái hơn. Có các
màn thi nhảy bao bố, chạy ba chân và chạy cầm thìa đựng trứng và đó là lúc ngày ấy trở nên tuyệt vời cho
Daisy May. Cô đã thắng giải cuộc chạy đua cầm thìa với quả trứng.
Cô đứng đó, ngay tại cột ghi mức thắng giải, gọn gàng và cười tươi,
trên tay cầm quả trứng đã luôc chín để dùng cho bữa tiệc sau cuộc đua. Mọi người
vỗ tay hoan hô vang dội. Dĩ nhiên họ vỗ tay hoan hô tất cả những người thắng của
các cuộc đua khác, nhưng Daisy May chả
thèm nghĩ đến điều ấy. Lần đầu tiên trong cuộc đời, cô bé nhận được những lời
khen ngợi trước công chúng và cô quá hồn nhiên để giả vờ không biết. Hãnh diện,
vui thích, hài lòng cùng lúc ập vào người cô. Bố tôi, người chấm giải, đã trao tặng cô giải thưởng cô đã thắng. Đó là
một cuốn sách về may vá thêu thùa có hình dáng một trái tim. Còn Edwin, người giúp làm trọng tài ở mức đến cũng nói:
- Ồ! Giỏi lắm Daisy! - Bỗng nhiên làm cô quá sung sướng không thể ngưng mỉm cười.
Bà Barshinskey có mặt ở đó
trông thật trang trọng. Bà phụ giúp mẹ tôi chuẩn bị mang thức ăn ra ,
và Daisy cứ đưa mắt liếc nhìn để chắc chắn rằng đó chính là mẹ cô, đang hoà lẫn với những người
khác và trông giống y như họ trong bộ đồ vải và cái nón rộng vành. Cô bé
chạy đến để khoe mẹ cuốn sách vừa được thưởng và trong giây lát, cô tạm bước
ra khỏi một Daisy May, nghiêm trang, đứng đắn và đầy trách nhiệm. Cô đang
hoàn toàn là một đứa bé ở lứa tuổi mười
một.
Rồi ông Hope-Browne loan báo
cuộc thi chay ba chân kế tiếp, một cô gái
và một cậu trai cột một chân vào với
nhau để thi đua. Bỗng nhiên tôi nảy ra ý kiến làm sao cho Daisy May hạnh phúc hơn., Tôi nói với Edwin:
- Anh tới hỏi Daisy May dự thi chung với anh đi!
- Đâu được, tao đang giúp làm trọng tài mà.
- Ai làm cũng được mà. Đi
mau đi. Đi hỏi cô ấy đi!
- Con nhỏ còn bé quá . – Anh
lúng túng nói.
- Anh Edwin, làm ơn! Cô ấy là
bạn thân của em.
Anh do dự một chút, đoạn nhún
vai nói:
- Thôi được! – Nói rồi anh đi
đến chỗ Daisy May.
- Này nhỏ có muốn tham dự cuôc thi này với tôi không?. Anh từ tốn
hỏi.
Gương mặt của Daisy May lúc
này có lẽ đỏ không thua gì của ông Hope-Browne. Cô bé chỉ kịp gật đầu, rõ ràng quá sung sướng không nói nên lời, và
Edwin choàng vai cô bé đưa ra điểm khởi
đầu cuộc thi.
- Nhỏ cúi xuống cột chân đi.
– Anh lo âu nói, e rằng đụng vào chân cô
bé sẽ làm cô bối rối hơn. Anh chăm chú
nhìn chung quanh trong lúc Daisy May cúi xuống cột chân hai người. Bất thần tôi thấy anh tập trung chú ý đến một
cái gì khác. Có những lần tôi có được cái
linh cảm về anh. Edwin lớn hơn tôi hai tuổi và kể từ khi còn rất nhỏ tôi đã theo
dõi và bắt chước anh nhiều thứ. Khi ta đi
theo một ai đó cả cuộc đời, ta thường có thể nhìn họ và nhận thức được cảm
giác của họ. Tôi ngắm nhìn Edwin và tự bản
thân thấy căng thẳng trong sự thông cảm
với anh. Tôi nhìn thấy được sự hoang
mang, bối rối trong các cử động trên cổ anh , trên bàn tay anh. Theo
hướng nhìn của anh, tôi nhân ra Galina đang cột chân với ông bố. Họ cười cợt, nụ
cười ấm áp, tuyệt vời, sung sướng cố hữu
của nhà Barshinskeys, và họ xì xồ nói chuyện với nhau bằng tiếng Nga. Đặc biệt là cô ta, trông cô
không hợp cảnh, xa lạ, vô lý giữa một cánh
đồng trên đất Anh toàn những con người dân giả xứ Kent. Và mặc dù cái áo được sửa
lại từ bộ đồ cũ của bà Lovelace, cô mặc vào trông vẫn hấp dẫn, và thay vì xử dụng bím quấn tóc,
cô lại buông thả nó xuống như một giải mây
đen xõa xuống dưới lưng. Một bó hoa anh túc được đeo vào giải eo thắt lưng cùng
màu với những bông hoa cài trên nón ông bố.
Có phải vì sự tưởng tượng của
tôi hay thực sự cánh đồng bỗng nhiên như
khựng lại , một sự đứng yên ớn lạnh? Tôi liếc nhìn bà Lovelace khi bà ấy bước
ra khỏi cái lọng che, gương mặt bà cau lại
với sự bất mãn. Bà đã cho phép Galina nghỉ làm buổi chiều để dự lễ hội, nhưng rõ
ràng bà rất kinh ngạc và tức giận về mái tóc
và bó hoa trên người cô. Ông Hope-Browne đứng với tư thế đưa khẩu súng lệnh
khởi đầu lên cao. Gương mặt ông đỏ lên cùng với mụn mặt liên tục thay đổi vô số màu sắc. Mẹ tôi coi bộ phiền lòng. Còn
bà Barshinskey như kiệt sức, đầu hàng. Chỉ hai bố con họ vẫn cười đùa, hôn hít,
chuyện trò bằng ngôn ngữ riêng làm tôi đâm ghét họ.
Ông Hope-Browne lấy lại bình
tĩnh và ông khai hỏa phát súng khởi sự. Cặp đôi Edwin và Daisy
May lập tức bị trợt ngã. Tôi không biết có phải do Daisy May xúc động vì sự gần gũi với Edwin hay bởi anh vẫn đang
chú tâm đến bố con họ. Hai nguời đứng lên
để tiếp tục, nhưng rồi chẳng thể nào theo kịp trong cuộc thi.
Bố con nhà Barshinskeys đã
thắng cuộc, không phải vì họ hợp tác hay
mà vì ông bố đã quàng tay ôm cô con gái như ôm một bó lúa để chạy. Cô gái lả lướt
trong vòng tay của bố, mái tóc dầy bóng
của cô xõa xuống gần quét trên mặt cỏ. Đó là cuộc thi duy nhất khán giả xem ra không hò hét hoan hô cổ vũ, chỉ vài tiếng vỗ tay rời rạc của một số
người ra vẻ bị bắt buộc vì thói quen lịch sự. Nhưng điều đó cũng không thành vấn
đề , bởi hai người họ cũng chẳng để ý. Họ ngã sóng soài ở mức đến và rồi ôm nhau lăn lộn, cười cợt la hét, đoạn
ông ta tung cô gái lên vai đi vòng quanh
cánh đồng vừa đi vừa hát một bài ca ngoại quốc một cách điên khùng. Mọi người
tránh chú ý đến họ, nhưng tôi thì không
thể. Một người dường như không thèm để ý tới, đó là Daisy May. Cô bé đang quỳ
xuống tháo bỏ chiếc khăn tay cột chân cô với Edwin. Cái hạnh phúc được làm bạn
đồng hành với Edwin của cô, cho dù không thắng giải, dường như đã xoá hết mọi
thứ khác chung quanh.
Trong bữa tiệc, tôi thấy bà
Lovelace nói chuyện với Galina, trầm tĩnh nhưng có chứa giận dữ. Cô gái có vẻ
buồn rầu, tệ hơn nữa, có ông Hope-Browne đứng ngay bên cạnh. Có lúc, ông cố ý
tránh đi, nhưng bà Lovelace kéo ông lại không cho bỏ đi. Mặt ông lại liên tục đổi
màu khi ông cố xen vào những lời nói hoà giải một cách lung túng, nhưng bà Lovelace lại lấn át ông và
tiếp tục mắng nhiếc Galina. Cuối cùng,Galina
quay đầu biến vào sau lọng che. Khi cô trở lại, mái tóc được cột bím gọn
ghẽ và bó hoa cài trên thắt lưng đã biến mất. Cô ngồi xuống một bàn lấy một mẩu
bánh ngọt gặm nhấm với sự buồn rầu.
Edwin ngồi cạnh tôi cũng chăm chú theo dõi. Tôi có linh cảm anh đang theo dõi cô ta và tôi quay qua. Gương mặt anh thờ thẫn và anh lặng lẽ nói:
- Tao mong cô ta đi khuất mắt.
Người khác tao không cần , kể cả ông bố, nhưng
tao mong cô ta đi khỏi đây.
Galina bỏ đi vào khoảng sáu
giờ. Thời gian nghỉ phép đã hết. Giờ cô
phải trở lại nhà xứ để chuẩn bị bữa tối.
Ông bố cô đã ra về trước bữa tiệc. Cho dù là ngày lể đăng quang của vua, ông và
bố tôi cũng phải làm công việc vắt sữa.
Chúng tôi tản loạn một chút.
Bé sơ sinh và trẻ nhỏ được mang trở về nhà. Người ta bắt đầu giạt qua sảnh đường
của giáo xứ để thưởng thức buổi hoà tấu văn nghệ tạp lục. Lần
đầu tiên chúng tôi, giáo phái Anh Em, được nghe giọng hát của ông Hope-Browne.
Tôi ngồi trên một trong hàng
dãy ghế dài được xếp trong sảnh đường, có
Daisy May và Edwin ngồi kèm hai bên. Anh Edwin rất lo lắng cho phần trình diễn
của ông Watkins, người xếp ga. Ông ta cần
được nhiều người vỗ tay ủng hộ khi ông thổi kèn, và anh phải cố hết
sức mình để xếp đặt việc ấy
cho tốt.
- Nghe đây, Soph! Em phải vỗ tay ngay khi ông bước ra chứ không chờ sau khi ông trình diễn xong.
Nhớ cổ võ khuyến khích trước khi ông khởi sự. Cả nhỏ nữa, Daisy. Hiểu chứ?
- Thưa vâng, anh Edwin.
Daisy May mau mắn trả lời.
Tôi trừng mắt nhìn cô. Thông thường mà nói, Edwin là một ông anh thuộc loại dễ
thương, nhưng không vì thế mà phải nghe
lời anh răm rắp như một thượng đế. Tôi chắc
chắn không nghĩ về anh của cô kiểu đó.
Phải chăng, nếu có thể làm, tôi sẽ giúp Ivan cư xử với
cử chỉ, hành động hợp thời hơn
Ngoại trừ ông bố, Ivan là
người duy nhất trong gia đình Barshinskeys hoàn toàn không bị ảnh hưởng bởi sự
nhiệt tâm truyền giáo của mẹ tôi. Mẹ càng
cố gắng, anh ta càng trở nên khó khăn và
cứng cổ hơn. Không chỉ gửi trả lại quần áo, anh ta từ chối
lấy nước từ cái bơm nhà chúng tôi mà đã hoàn toàn được phép,
cho dù nhiều lần trong ngày anh phải gù lưng mang thùng nước về từ trên đỉnh đồi
xa nhà. Còn điều này mà tôi đã không cho mẹ biết, Daisy May báo cáo là anh ta từ chối ngủ trên cái giường xếp
đi chơi cắm trại của chúng tôi. Daisy
May nói:
- Anh ấy tự làm lấy cho mình
một cái giường với khung bằng gỗ dùng nhiều
đinh nối lại. Tớ có nằm thử thấy chẳng tiện nghi chút nào.
Một thí dụ điển hình về tính
bướng bỉnh của Ivan là khi chúng tôi qua
nhà rủ họ đi tham dự lễ hội, bà mẹ tôi
nhìn đôi chân đi đất và chiếc quần tơi tả của anh và nói:
- Quần áo tôi vẫn để nguyên
trong cái thùng để ở phòng giặt. Nếu cậu
muốn đi dự lễ đăng quang, cậu nên qua nhà lấy
mà chuẩn bị.
Ivan ra vẻ bị tổn thương, xúc
phạm nặng nề. Tôi nhận ra rằng anh ta cũng mong đợi buổi lễ như tất cả chúng tôi, mặc dù miệng có ý chê bai những trò chơi dành cho con nít và những cuộc thi đua đần độn với đám con trai yếu nhớt trong làng. Nhưng bây
giờ tối hậu thư của mẹ đã ban hành: chỉ những người ăn mặc đàng hoàng đứng đắn mới
nên tham dự cuộc vinh danh nhà vua.
- Tôi không đi.
- Đi chơi đi, con trai! – Bà
Barshinskey nhẹ nhàng nói, nhưng Ivan đã quay đầu chạy bay ra khỏi nhà. Bà mẹ
anh ta thở dài như bà đã hiểu mà không làm được gì. Tôi định chạy theo
anh, nhưng mẹ tôi đã hộ tống mọi người lên đường và khi chúng tôi bước
ra khỏi cửa, anh ta đã biến mất.
Tuy thế, anh chàng cũng có mặt
ở đó. Suốt buổi chiều, anh chàng lượn lờ bên ngoài cánh đồng, vừa đủ gần để thấy những gì ở bên trong, vừa không quá gần để nói
là anh chàng thực sự có tham dự . Sau khi Daisy May đã thắng cuộc thi chạy cầm
muỗng và trứng, tôi đã băng qua cánh đồng, một đoạn dài trong bộ y phục ngày lễ để bảo
anh:
- Daisy May vừa thắng cuộc
thi muỗng và trứng đó!
- Tốt.
- Tôi nghĩ là anh có rất nhiều
cơ may với cuộc thi nhảy bao bố. Anh khoẻ lắm mà!
- Không, cám ơn.
- Anh có đến dự tiệc sau đó không?
- Không.
- Vậy anh có muốn tôi mang đến
cho anh một ít đồ ăn trên bàn không?
- Không. – Và rồi gương mặt
anh đổi sang đầy oán ghét, anh nhổ toẹt xuống đất.
- Tụi bay thật cao ngạo và làm người khác khó
chịu, cả nhà tụi bay. Tao mệt với nhà
Willougbys. Tụi bay nghĩ rằng có thể
thay đổi gia đình tao thành những con mèo mặc áo gấm mập ú
như tụi bay. Còn khuya. Hãy để tụi tao yên.
Lúc đầu, tôi thấy khó chịu khi anh ta nói với tôi kiểu đó,nhưng
bây giờ thì đã quen không thèm để ý đến nữa.
Tôi là người duy nhất anh ta có thể tỏ ra hỗn xược và tôi phải nhận chịu thay cho mẹ, Lillian và cả Edwin. Được cái là
anh ta luôn luôn hối lỗi và cố sửa chữa lỗi lầm, giống như lần đầu tiên anh bảo
tôi không phải là một con bò kênh kiệu. Tôi biết tốt nhất là cứ để anh ta yên.
- Vậy xin kiếu.
Anh không trả lời, nhưng tôi
hầu như nghe tiếng anh cau có khi tôi bỏ đi.
Bây giờ, khi ngồi trên ghế
trong sảnh đường của giáo xứ, tôi thấy anh thập thò ở phía sau. Anh ta chui vào trong một hốc cửa, nơi cất giữ thang và chổi quét nhà , dựa lưng vào
giữa bức tường và bậc cấp. Ông Hope-Browne hát hai bài hát, và anh Peter
Hayward nói đúng. Nếu nhắm mắt lại và quên đi những nốt mụn trên gương mặt ông
và chỉ nghĩ đến giọng hát trữ tình của ông thì tuyệt diệu. Thật đáng thương hại.
Ông Hayward đeo râu giả và cặp mắt kính một tròng, ông trình diễn một màn tấu hài độc thoại mà người
ta ước chi ông đừng làm thì hơn. Lillian
cùng đám bạn con gái trong lớp Thánh
Kinh đồng trình diễn một mục ngâm thơ. Chị đứng ngay ở giữa của hàng đầu và đã
vẫy tay nhiều hơn bất cứ ai. Có rất nhiều màn
độc tấu dương cầm và rồi cũng tới
phần trình diễn thổi kèn trumpet của ông Watkins. Mục ông ở cuối chương trình,
không phải là mục hay nhất nhưng bởi vì
phải xếp đặt chương trình phù hợp với việc ông hoàn tất công việc với chuyến
xe lửa 8.2 chạy qua đây để đến
Edenbridge trước khi đến trình diễn. Tôi đứng dậy lặng lẽ lẻn xuống
cuối sảnh đường nơi Ivan đang ở đó.
- Edwin muốn tụi mình vỗ tay
cho ông Watkins trước khi ông trình diễn. Tôi nghĩ là ông thổi kèn không hay lắm.
Vì thế Edwin e là ông ta không được mấy người tán thưởng.
- Được thôi. – Ivan nói. Đó
luôn luôn là cách chúng tôi hoà giải. Hai
đứa vờ như những lời nói lúc trước không
hề xảy ra.
Ông Watkins bước vào, và Ivan
vỗ tay thật to bên cạnh tôi. Khi ông khởi sự trình diễn, chúng tôi
thấy ngay lo ngại của anh Edwin
không tránh khỏi. Ông ta liên tục chơi sai nốt nhạc, cố sửa lại cho đúng, nhưng khi vừa lấy lại được đúng thì ông lại run rẩy
và lại trượt ra khỏi và chơi sai một nốt nhạc khác. Tệ hơn nữa là khi ông bị căng thẳng thì đôi mắt
ông trở nên lé xẹ. Đằng sau chiếc kèn trumpet, người ta có thể nhìn thấy hai má đỏ phồng lên như trái banh của ông và ở
trên là cặp mắt lé đảo quanh. Tôi bắt đầu
cảm thấy tức cười. Đã ráng cố nghĩ đến những chuyện thật buồn, thật khủng khiếp
nhưng tôi không thể nào nín cười được. Tôi bèn nín hơi nhìn xuống đất, lắc đầu
rồi cầu khẩn Thượng Đế cho tôi có thể nín,
bởi nếu tôi bật cười, anh Edwin sẽ không
bao giờ tha thứ cho tôi.
Bên cạnh, tôi cảm thấy người
anh Ivan bắt đầu run rẩy trong một sự cảm thong với tôi rất đau lòng. Tôi nhìn
anh và điều đó trở nên quá sức. Không còn kiềm chế được. Cả hai đứa cùng bật ra
một tiếng, nấp xuống sàn và lấy tay tự bịt miệng lại. Khi tiếng vỗ tay chỉ báo phần trình diễn khúc nhạc đầu đã
xong, vì ông còn thêm một khúc nữa, chúng tôi chui ra khỏi hốc cửa đi ra ngoài.
Trong cái mát lạnh buổi chiều tà, hai đứa quờ quạng đi qua cánh đồng, hò hét cười
vang trong niềm vui, dựa lưng nhau, nhảy dựng lên và cuối cùng đổ nhào xuống một đống cỏ. Mỗi lần có đứa bắt đầu bớt cười,
đứa kia lại bật rộ lên , cứ như thế liên tu bất tận, và từ từ rấr xa, tiếng kèn
trumpet cũng thế cho tới cuối cùng, nó từ
từ thành tiếng nấc cục đứt đoạn và hơi
thở điều hoà.
Những âm thanh văng vẳng và im ắng dần từ phía sảnh đường đã làm cho thế giới riêng nhỏ bé của chúng tôi như càng thinh lặng hơn.
- Hãy nghe tiếng dế gáy kìa!
Tích…tích…tích… chúng vang
khắp nơi quanh chúng tôi.
- Một con dơi đầu tiên xuất
hiện.
Hai đứa nằm ngửa mặt lên trời,
mắt điều chỉnh theo khoảng không gian đang
tối dần và nhìn đám dơi bắt đầu chuyến
bay đêm của chúng. Chúng bay nhanh hơn chim rất nhiều và ta không thể nhìn thấy
chúng rõ ràng, chỉ thấy những sinh vật đen trên khung trời mờ xám di động , lướt từ cây
này qua cây khác.
Rồi bỗng nhiên, từ một góc
khuất nào đó, một âm thanh khác nổi lên, một âm thanh kỳ ảo mỏng manh, một âm thanh xuất
hiện không đúng nơi đúng chỗ với tiếng dế kêu và tiếng dơi bay liệng, nhưng lại
thật đúng, thật hợp cho một buổi tối mùa hè
dịu dàng ấm áp khi mọi thứ mọi vật
trở nên buông thả một cách tuyệt vời
- Nghe này, Ivan! Đó là bố
anh đó! – Tôi thì thầm và cảm thấy anh cứng người lại bên cạnh tôi.
Ô! Thật là sự kỳ ảo của tiếng vĩ cầm chơi trong đêm.
Không phải là loại âm nhạc nước Nga buồn sầu thảm não mà là âm thanh nhạc đồng
quê của “Sir Roger de Coverly”. Rồi như
có dấu hiệu từ nhân vật huyền thoại Pied Piper, cửa sảnh đường bỗng mở ra, người
ta ùa ra và tụ họp lại trên cánh đồng.
Buổi hoà tấu văn nghệ đã kết thúc, ngày lễ hội đăng quang đã kết thúc, nhưng không
ai muốn về nhà. Và bỗng nhiên ở tại đây, bản nhạc tuyệt vời mà mọi người đều quen
thuộc từ khi còn thơ ấu đang vang lên ,
và đâu phải là vấn đề khi người chơi nó
tuyệt vời thế là một anh chàng ngoại quốc.
Ông vừa kéo đàn vừa chầm chậm
bước đi tiến về phía trước cho đến
khi tới gần cánh cổng ra vào của sảnh đường và khi bản nhạc
đến hồi chấm dứt, c ó tiếng xì
xào tán thưởng. Ông Barshinskey cúi
chào, và nói bằng một giọng vang vang như tiếng cười:
- Bây giờ tôi sẽ chơi âm nhạc phục vụ quý vị. Không phải nhạc của quê hương
tôi. Vì đức tân vương, tôi sẽ cố chơi nhạc
của quý vị.
- Xin chơi bài “Cumberland
Reel” được không ạ!. – Có ai đó yêu cầu.
Ông Barshinskey lắc đầu.
- Rất tiếc là tôi không biết
tên các bản nhạc. Tôi có thể chơi đàn vì đã được nghe chúng, nhưng tên gọi là gì tôi không biết.
- Để cháu hát, bác Barshinskey!.
– Tôi la lên và chạy tới cạnh ông.- Cháu
hát lên và bác sẽ chơi đàn được ngay.
Rồi tôi bắt đầu ư ử trong miệng bài “ Cumberland Reel”, và ông
ấy, vẫn kỳ tài như thường lệ, đã bắt được nhịp điệu sau vài khúc đoạn, đưa vào tiếng đàn và bắt đầu chơi.
Có ai đó mang một cái ghế
cho ông ngồi, một cái nữa bên cạnh cho tôi, lại thêm vài cái nữa . Rồi người ta
ngồi xuống hay làm vài bước nhảy nho nhỏ
khi âm nhạc cuốn hút họ. Ông tiếp tục chơi
nhiều bản nhạc khác, những bài nhạc cổ mà mọi người có thể hát và ông chơi lại
bài “Sir Roger de Coverley”, chỉ khác lần này, ông Hayward bận rộn lên xuống, cố
tạo thành một vòng khiêu vũ có tính dân gian trên mặt đất gồ ghề của cánh đồng.
Cứ sau mỗi bài nhạc, ông lại
vỗ nhẹ vào vai tôi hoặc kéo đầu tôi áp vào má ông và nói “con bé thông minh” hoặc “cưng yêu quý”
hay “Ô nhỏ Sophie”, và chính sự gần gũi quá sức tưởng tượng, sự vĩ đại và ấm áp
của ông đã thấm qua da thịt vào trong tim tôi. Tôi không hề nghĩ đến bố, mẹ hay
Lillian dù mọi người đều ở đó, lắng nghe và thưởng thức như những người khác. Chắc
là chuyện đó được chấp nhận vì sau đó tôi
không bị la mắng trách cứ gì. Có lẽ họ cũng thoải mái như mọi người khác trong
cái ngày lễ hội tuyệt vời này và một buổi tối với tiếng đàn của ông Barshinskey.
Thật là niềm sung sướng vui
vẻ . Ông Hayward cứ liên tục bảo là
thật tiếc khi không có một đống lửa trại và một thùng rượu táo. Trong
một lúc mát giây và cuồng nhiệt, ông còn định tổ chức đi lượm củi, nhưng chẳng đi
đến đâu. Người ta bận thưởng thức âm nhạc đến nỗi không ai quan tâm đến có cần
lửa trại hay không. Và chúng tôi cũng chẳng cần, bởi từ cái bộ dạng đồ sộ với chùm
hoa anh túc úa tàn và nhàu nát quanh vành
nón của ông Barshindskey đã hiện ra như một ánh lửa rực rỡ nhất trong đêm.
Ông không ngồi trên ghế suốt
buổi. Thỉnh thoảng, ông lại đứng lên, nhất là khi người ta khiêu vũ, ông tung tăng
nhảy lên xuống bên cạnh họ với tiếng” đom đì đom đì…” và có một lần ông quá kích
thích đến độ chỉ đạo một cuôc khiêu vũ. Ông
cúi đầu vào người kế tiếp tới phiên nhảy với ông và la lớn:
- Này , chú nhóc, nhảy với bà
mập kia đi. Mau , mau, tới phiên chú lùn đó!. – Và chẳng ai phiền giận vì bị gọi
là chú lùn hay bà mập cả.
Tôi cũng muốn ra nhảy nhót,
có điều là không chịu đựng nổi phải xa rời
ông. Nhưng rồi, chính ông đã cúi đầu và nói:
- “Nhỏ cưng”! Nhỏ ra nhảy với
con nhỏ Daizeemay của ta đi. Nó không được mời nhảy nhiều. Đêm nay, ta mong nó nhảy
nhót thật vui.
Và tôi cùng Daisy May xoay vòng lên vòng xuống, rồi tôi và Edwin, và
rồi tôi thấy bố cùng chi Lillian cũng bước ra nhảy.
Tôi không biết, hay không
nhớ đêm ấy kết thúc ra sao. Tôi cho là mọi người từ từ tản mác, và đêm vui chấm
dứt với ông Barshinskey chơi lại lần nữa
những điệu nhạc Nga sầu muộn. Bố mẹ chắc
đã gọi tôi và đưa tôi về. Có một điều tôi ghi nhớ mãi là ông Barshinskey đã cầm
lấy tay tôi như tôi đã là một vị phu nhân
và đặt lên đó một nụ hôn. Và mặc dù ông cười và nháy mắt với tôi, nó cũng thật đáng
yêu vì nó dành riêng cho tôi.
Ivan có thể đã về nhà rất sớm
bởi từ khi ông bố anh đến, tôi không còn thấy anh nữa.
(xem tiếp chương 6)
No comments:
Post a Comment