Chương 6
Tai nạn nghề nghiệp
M
|
ột ngày thứ Bảy tháng Tám,
khi đang làm việc tại nông trại Hayward,
tôi nghe tiếng gào thét khủng khiếp của
bố vang lại từ phía chuồng bò. Bà Hayward và tôi nhìn nhau, đoạn tôi buông thùng
nước xuống , cắm cổ chạy thật nhanh tới.
Xưa nay bố chưa bao giờ gào thét cả.
Cái chuồng bò ở ngay phía bên kia sân . Muốn nhìn thấy bên trong nó, phải trèo lên đứng
trên những cái thùng lớn dựng sát tường. Tôi
đã leo lên trên đó trước cả khi nghĩ cách làm sao leo lên được và trèo
qua tường trước khi bà Hayward có thể kéo tôi xuống.
Bố tôi nằm ở trong cái máng
đựng nước hoàn toàn bất động. Con bò đực với cái lưng gù tổ bố đứng trên người ông.
Nó cào cấu mặt đất một hồi rồi đạp nát cái gàu nước mà bố chắc đã đánh rơi.
- Bố ơi! Bố…!
Tôi phóng đại xuống và nhảy ngay tới cửa chuồng, nhưng bố, giống như những
người thợ nuôi bò lão luyện, đã cài then cửa bên trong để không cho con bò lẻn thoát ra ngoài trước khi buộc nó vào cột.
- Bố cháu đang ở trong đó! –
Tôi gào lên với ông Hayward. Sân chuồng lúc này đầy người: ông Hayward, Peter, ông Barshinskey, cậu con
trai phụ vắt sữa. Mọi người mặt không đỏ bừng cũng trắng bệch.
- Mang bố tôi ra ! Hãy mang
bố ra!
- Tránh lối ra Sophie.
- Bà Hayward nói thật sắc bén và cố kéo tôi
ra xa cánh cửa.- Để đó cho đám đàn
ông. Họ sẽ đưa ông ra.
- Phải phá cửa. Peter, đi lấy cái rìu. Mau đổ thêm đồ ăn
cho nó , đồng thời cố chuyển hướng nó ra
chỗ khác.
Dường như cả một mùa hè đằng đẵng đã đi qua trước khi Peter trở lại với cái rìu.
Tôi nghĩ mình sẽ khóc nhưng tôi đã không
khóc. Nếu bố còn tỉnh táo, bố sẽ nghe thấy và ông sẽ buồn lòng nghe thấy tôi khóc.
Tôi không muốn ông buồn về bất cứ chuyện gì. Tôi hứa sẽ không làm ông buồn nếu Chúa và ông Hayward tìm được cách mang bố ra
khỏi trong đó.
Ông Barshinskey giật lấy cái
rìu từ tay Peter chặt mạnh một cú vào chỗ
cài then cửa. Đoạn ông và Peter xông vào. Peter cầm cái thuổng và ông Barshinskey
với cái rìu trên tay.
- Đừng làm hại con bò. – Ông
Hayward la lên. - Đừng làm hại nó quá mức
cần thiết. Bỏ cái rìu qua một bên .
Tôi có lẽ đã đập cái búa đó
lên đầu con bò, đó là điều có lẽ tôi đã làm: giết con bò, giết luôn cả ông
Hayward.
Con bò rống lên. Ông Barshinskey bắt đầu nói với con bò bằng thứ ngôn ngữ riêng của ông, không phải những lời
êm dịu thường ngày, mà như những tiếng chửi thề. Tôi nghe cả ông và Peter cùng
la lên, rồi ông Hayward bước vào với trên tay thêm một cái thuổng và sợi dây trên
tay, đoạn có nhiều tiếng đổ vỡ và tiếng cái gàu bị đập phá lần nữa. Tôi có lẽ đã nhảy vào, vâng, đúng thế,
nhưng bà Hayward đã một tay nắm lấy bím tóc tôi, tay kia khoá chặt hai cổ tay tôi
lại. Từ phía sau, láng thoáng tôi nghe bà ấy nói:
- Này, ngưng lại đi, Sophie!
Ngưng lại!
Rồi tôi nghe tiếng ông
Hayward nói :” Bắt được nó rồi” và con bò cuối cùng rống lên khi họ xỏ được sợi dây qua mũi nó và cột nó lại.
Tôi nghe thấy tiếng bố rên
rỉ, và mặc dù thật kinh hoàng nhưng cũng thật tuyệt, bởi ông đã không chết. Vì
vậy giờ tôi có thể khóc.
Ông Barshinskey bước ra ẵm
bố trên tay. Chân bố lòng thòng lủng
lẳng, gương mặt đầy máu. Ông bất động trở lại.
- Mình phải làm gì bây giờ?
- Tốt hơn hãy tháo cánh cửa
xuống cho ông ta nằm lên trên rồi khiêng về nhà. Peter, con đi lên phố mời bác
sĩ xuống ngay nhà Willoughbys càng sớm càng tốt. Sophie, chạy về
nhà báo cho mẹ cháu biết.
- Không! Cháu không thể rời bỏ bố cháu được.
Ông Hayward có vẻ giận dữ.
Nhưng với cái lắc đầu cảnh báo của bà vợ, ông quay đi.
- Để tôi đi. – Bà Hayward nói.
- Tiện tay giúp bà ấy chuẩn bị sẵn sàng cho bác sĩ.
Họ tháo xong cánh cửa. Bố đưọc khiêng đặt nằm trên
đó. Ông Hayward và ông Barshinskey mỗi người một đầu bắt đầu khiêng đi qua sân.
Tôi chạy lúp xúp theo, cứ vài giây lại nắm tay bố, nhưng ộng không cử động. Cánh
cửa đã nặng lại thêm thân hình bố to lớn, cuối cùng, cậu con trai phải phụ một
tay với ông Hayward, khiêng đi một cách cực nhọc. Mọi người đổ mồ hôi nhễ nhại,
cho dù không phải khiêng nặng, bởi đó là một ngày nóng như thiêu,và ngột ngạt
khó thở. Có lẽ đó là lý do làm cho con bò nổi điên.
Khi về tới nhà, ông Barshinskey lại bế bố
tôi lên và đưa ông lên lầu. Vào lúc này chân tay của bố thả rơi đong đưa lòng
thòng . Nhìn cảnh tượng ấy tôi thấy chóng
mặt. Lên tới phòng, ông đặt bố lên giường.
- Tốt nhất đừng đụng tới ông
cho đến khi bác sĩ đến. – Bà Hayward nói.
Bây giờ bà mới đưa ra lời khuyên này đã
quá trễ. Bố đã bị kéo đẩy khắp nơi.
Đám đàn ông đi xuống dưới
nhà. Ba người đàn bà chúng tôi còn túc trực quanh giường. Mặt mẹ tôi trắng bệch
ra như tờ giấy trắng. Bà sắc cạnh nhìn tôi, dường như đó là lỗi tại tôi, nhưng rồi tôi nhận ra rằng
bà nhìn mà không thấy tôi. Mãi
khi bà thực sự nhìn ra tôi, bà bảo tôi đi xuống dưới nhà.
- Không!
- Nó nhìn thấy ông nhà trước.
– Bà Hayward nhẹ nhàng nói.- Chúng tôi đang cùng làm việc
ở khu chế sữa thì nghe tiếng ông ấy la lên. Sophie nó chạy leo lên tường trước khi tôi kịp cản nó.
Và nó thấy ông nhà ở trong chuồng.
Mẹ tôi trở lại trạng thái
thường ngày, bà nở một nụ cười nhẹ. Tôi
cảm thấy bà muốn tỏ ra tử tế nhưng không
có thời giờ cho tôi.
- Thôi được, con có thể ở lại
đến khi bác sĩ tới.
Tôi đứng cạnh giường nắm
tay bố. Những viễn ảnh rùng rợn mở ra trước mắt tôi và cái lớn lao nhất là sự cô
đơn. Mẹ và Lillian hai người có nhau. Edwin có đời sống riêng của anh, và ngay
cả anh, vì là đứa con trai duy nhất, vẫn có chỗ trong gia đình và chỗ trong tim
mẹ. Còn tôi thì không. Nếu có gì không hay xảy đến cho bố, tôi là kẻ hoàn toàn
cô độc.
- Có lẽ tôi nên đi pha vài ly trà chứ thưa bà Willoughby?
- Dạ! bà thật tử tế.- Mẹ lịch sự trả lời và bà Hayward đi xuống bếp.
Ngay cả lúc này, ngồi yên lặng cạnh nhau bên người đàn ông là chủ chốt, là cột
trụ, cả về vật chất và tinh thần của đời sống gia đình chúng tôi, hai mẹ con tôi
vẫn xa cách. Tôi vẫn không thuộc về mẹ. Bà
có cảm giác tôi không phải là con. Tôi bắt đầu run sợ nhưng bà không để ý
tới. Đó không là một cú sốc, mà đó là một
nhận thức thấy mình không được yêu
thương bởì một người đáng lý phải yêu thương mình. Mẹ không ghét bỏ tôi. Bà vẫn
làm tròn trách nhiệm gia đình đối với tôi, nhưng bà không dành tình yêu cho tôi.
Họ đã báo cho Lillian tin để
quay về từ nhà cô Clark và tôi nghe tiếng chân chị vội vã lên lầu. Khi chị đặt
chân vào phòng, gương mặt mẹ sụm xuống và bà bắt đầu khóc. Lillian cũng thế.
Hai người khóc nhẹ nhàng, chỉ vài giọt
nước mắt rơi trên má, và rồi Lillian vòng tay ôm mẹ nói:
- Để con đi lấy cho mẹ một tách
trà. Bà Hayward mới pha xong.
Mẹ cười một cách yếu ớt và nói:
- Ô! Lillian! Chúng ta phải
làm gì bây giờ…? - Rồi bỗng nhiên bà cứng
cáp trở lại. - Chúng ta phải chuẩn bị nước
nôi sẵn sàng cho bác sĩ, và một ít vải cũ.
- Bà Hayward đã lo sẵn sàng nước nóng rồi mẹ à!
- Mình có thể lau rửa mặt mũi
cho ông ấy một chút chắc không sao. Chắc không làm ông tổn thương hơn trước khi bác sĩ đến đâu.
Bà trở lại con người của bà,
xông xáo, chủ đạo mọi thứ. Bà lau chùi mặt
cho bố, làm cho tôi một ly trà nóng có đường rồi sai chị Lillian qua nhà bà
King mượn thêm một bình nước nóng để đắp quanh người bố giữ nhiệt cho ông. Dù hôm
ấy là một ngày nóng chảy mỡ, thân thể bố lại lạnh như nước đá.
Khi bác sĩ tới, ngoại trừ mẹ,
chúng tôi được mời đi xuống dưới nhà. Họ ở trên đó thật lâu.
Ông Barshinskey và Peter đã
trở về nông trại, bỏ lại vợ chồng ông Hayward. Lillian và tôi ngồi nhìn nhau
trong một bầu không khí căng thẳng và bối rối.
Bỗng Lillian nhớ tới vai trò con gái chủ nhà:
- Xin mời ông bà và trong
phòng khách.
- Không đâu, xin cám ơn cô.
Chúng tôi không đủ tươm tất để vào phòng khách. Ông nhà tôi còn đang mặc đồ làm
việc ngoài nông trại và tôi không nghĩ rằng mẹ cô sẽ cám ơn khi chúng tôi ngồi
lên bộ sa lông với áo quần đầy bụi đất.
Lillian chợt đỏ mặt.
- Chúng tôi ở lại chờ coi bác
sĩ phán đoán thế nào rồi chúng tôi về. Tôi vẫn còn nhiều công việc trong trại.
Edwin bước vào, có
cậu con trai làm ở trạm xe lửa của ông
Watkins đi kèm.
- Bố ra sao?
- Bác sĩ còn ở trên đó.
- Em không sao chứ, Sophie?
- Dạ, không sao.
Im lặng một lúc khá lâu. Đoạn
ông Hayward nói với Edwin:
- Cháu nhớ cho mẹ cháu biết
là bác bảo bà đừng lo lắng gì về chi phí bác sĩ. Bác sẽ lo việc đó.
- Dạ ông thật tử tế.
Đó là một điều tốt và tôi gần
như tha thứ cho ông về việc ông bảo đừng làm hại con bò. Cuối cùng, họ cũng đi
xuống khỏi lầu và vào phòng khách. Tôi nghe tiếng ông bác sĩ nói ầm ầm từ xa, rồi cửa trước mở ra và đóng lại.
Ông bác sĩ đã về. Mẹ tôi bước qua nhà bếp.
Mắt bà trông xanh và sáng:
- Bố con bị động não, một mắt
cá chân bị bể và mấy cái xương sườn bị gãy. Ngày mai. Bác sĩ sẽ trở lại coi cái
đầu của ông thế nào.
Thật là nghiêm trọng. Khi bác
sĩ phải đến thăm vào ngày Chúa Nhật, chúng
tôi biết là thương tích thực sự nghiêm trọng.
- Bây giờ, chúng ta phải giữ
yên tĩnh cho ông.
Mọi người đứng yên một lúc. Đoạn ông Hayward lên tiếng bằng một giọng ôn hoà nhỏ nhẹ:
- Vậy lúc này chúng tôi có
thể làm được gì không thưa bà Willoughby?
- Xin cám ơn lòng tử tế của ông,
chúng tôi có thể tự lo được .
Người ta có thể giúp đỡ chúng
tôi. Nhưng người ta đây với nghĩa ở
trong cùng một tầng lớp của chúng tôi.
Nhà Haywards hiện là người chủ, và người làm công (như chúng
tôi) không nên đòi hỏi quá đáng với họ, e rằng họ sẽ mất kiên nhẫn. Chúng ta cảm
thấy dễ dàng hơn khi tìm sự giúp đỡ từ
những người ngang tầm chúng ta.
- Như vầy, chúng ta cùng nhau
lo liệu. – Ông Hayward nói.- Ngày mai sẽ
bàn chuyện ấy. Tôi cũng vừa mới bảo cậu trai nhà này rằng tôi sẽ giúp một tay về
khoản chi phí bác sĩ.
- Dạ ông thật tốt bụng, thưa ông
Hayward. - Mẹ nói không lấy gì hào hứng
và rồi họ ra về.
Đó là ngày thứ Bảy, nhưng chúng
tôi đã không tắm gội vệ sinh toàn diện như thường lệ, chỉ rửa ráy qua loa ở
cái bồn rửa mặt, cũng không chùi rửa sân và nhà tắm. Mọi sự êm ắng và khác lạ làm
chúng tôi nhận ra tình trạng thương tật của bố nặng nề ra sao. Vào buổi tối, tôi
lấy đoạn sách Thánh ra, rồi nhận ra rằng bố không có mặt ở đó nghe tôi đọc, và đó là lúc
đau khổ phiền muộn quất vào người tôi. Lần
này không còn là sự ích kỷ. Tôi nghĩ về đủ mọi thứ đáng lẽ tôi nên làm cho bố,
và mọi thứ bố đã làm cho chúng tôi. Những việc như phải thức giấc mỗi ngày vào bốn giờ sáng , đốt lò lên để cho phòng ấm áp trước khi chúng tôi đi xuống.
Hoặc bố chẳng bao giờ lấy thức ăn hai lần
trong một bữa để đám con luôn luôn có đầy
đủ. Ông không bao giờ la mắng hay đánh đập chúng tôi., chỉ có mặt ở đó, im lặng,
hoà nhã, tử tế. Ông không kể chuyện cho chúng tôi nghe, trừ những chuyện trong
Thánh Kinh. Ông không biết chơi đàn vĩ cầm hoặc thu hút đám đông như anh chàng Pied Piper; nhưng ông là bố tôi và
lúc này ông đang đau nặng và tôi biết, tôi không thể có bố dưới một con người
khác. Một cảm giác phản bội lại bố tràn ngập vào trí óc tôi trong một thoáng giây, làm quên đi nỗi lo lắng không biết ông có bề nào hay không.
Căn phòng thật thinh lặng,
chỉ nghe tiếng tich tắc của đồng hồ và
thỉnh thoảng tiếng cót két trên lầu vọng
xuống. Mẹ đang ở bên cạnh bố. Lillian ở
bên mẹ. Edwin đi đóng cửa chuồng gà, một việc mà bố thường làm., chứng tỏ cả
Edwin cũng đang có những suy nghĩ lo âu riêng của anh.
Tất cả những ý tưởng này vụt qua trong trí. Tôi thấy Edwin đứng bên
chuồng gà, bèn tự hỏi không biết bố có bao giờ ra đóng cửa nó nữa không. Tôi thấy
mẹ và chi Lillian ở trên lầu và gương mặt của bố trên gối. Bỗng nhiên, một cơn gào thét vang lên trong đầu tôi và tôi biết tôi phải chạy ra ngoài nếu tôi không gào thét được. Chúng tôi đã giữ được sự
bình tĩnh , không la khóc ầm ỹ và
cũng không nói cho nhau nghe về những điều mình sợ hãi.
Tiếng la hét trong đầu mà phải cố giữ yên đã dẫn tôi ra khỏi nhà bếp, băng qua sân. Tôi bắt
đầu chạy và chạy mãi, cuối cùng thấy mình
ở trên cánh đồng nhà Tylers. Nơi đây tôi có thể lăn ra nằm trong một góc rào mà
khóc, chắc rằng sẽ không ai nhìn
hoặc nghe thấy tôi.
- Đến đây nào, “cưng nhỏ”, Chuyện gì vậy?
Ông Barshinskey ngồi xuống đất bên cạnh tôi và kéo
tôi vào lòng, cánh tay ôm vòng lấy tôi và
chòm râu xõa trên đầu tôi. Ông ôm
tôi thật chặt và bắt đầu đong đưa lui tới
một cách nhẹ nhàng. Tôi không còn muốn ông trở thành bố tôi nữa, nhưng tôi bám
lấy ông vì ông đang mang lại cho tôi sự ấm
áp và niềm thông cảm giữa con người với nhau.
Tiếp xúc với con người ông cũng là để
xua đuổi đi cái cảnh tượng ghê gớm
của tử thần.
- Nhỏ không được khóc, nhỏ cưng
ạ! Bố của nhỏ đang đau nặng, đúng vậy, nhưng ông thật to lớn, mạnh
mẽ và ta không nghĩ là Thượng Đế bắt ông
lần này phải chết.
Tôi không thể trả lời, và
thật khôn khéo, ông không nói gì thêm nữa, chỉ tiếp tục ôm và đong đưa tôi qua lại, đồng thời trong cổ họng
ông phát ra tiếng ru à ơi dịu dàng . Sự
níu kéo gian díu về phía ông Barshinskey
bắt đầu khuấy lại trong tôi, nhưng lúc này
nó bị lấn lướt bởi hình ảnh thân thể bèo nhèo bất động của bố trong chuồng bò.
- Cháu yêu bố cháu hơn bác.
– Tôi vừa khóc vừa thố lộ. Và trong
thoáng giây, ông ngừng ru tôi.
- Đương nhiên là thế “cưng” ạ!
- Cháu tưởng không yêu bố
nhiều,nhưng thật ra nhiều lắm.
- Đúng!
Ông buông một tiếng thở dài
nhè nhẹ, đặt tôi xuống cỏ bên cạnh ông và
choàng tay qua vai tôi.
- Sophie! – Ông buồn rầu nói.
- Khi cháu lớn lên cháu sẽ hiểu rằng người
ta có thể yêu nhiều người bằng nhiều cách.
Cháu không cần phải nói: “ Cháu yêu người này, bởi thế cháu không yêu những người
khác”.
- Nhưng bởi cháu đã muốn bác
trở thành bố cháu. – Tôi nức nở. – Cho nên giờ Chúa trừng phạt cháu.
- Úi chà! – Ông phản bác.
- Ai dám nghĩ rằng Chúa sẽ lắng nghe một
đứa trẻ nít như cháu? Chúa cai trị muôn loài, đâu có phí thì giờ để tạo ra
ba cái trò lẻ tẻ này để trừng phạt cháu chứ? Không phải thế!
- Nhưng bởi cháu phản bội bố
cháu. Cháu đi yêu quý bác nhiều hơn bố.
- Không, Sophie à! Cháu chỉ yêu
thích những việc mà ta có thể làm nhưng bố cháu không thể. Bởi ta…khác biệt với bố cháu, và cháu yêu thích
điều này. Ta mà là bố cháu thì ta sẽ là một ông bố rất tệ, “nhỏ cưng” à!. – Ông ngưng
một chút và nói với chính mình.- Ta chẳng bao giờ là một người cha tốt.
Và rồi một sự
mơ hồ giữa cái xúc cảm lẫn lộn với sự
trung thành làm cho tôi trả lời ông:
- Ồ! Có chứ. Bác là người cha tốt.
Trong bóng tối tôi nghe ông
chép miệng:
- Hà! Có lẽ ta có một chút.
Đối với Galina, thì ta tốt, ta là người cha mà
nó coi trên mọi người cha. Đúng thế,
đổi lại nếu Galina có một
người cha như cha cháu, nó chắc sẽ
rất buồn.
- Không, cô ấy không nên buồn.
Sự đau khổ làm tôi khóc, và
ông lại chặc lưỡi :
- Cháu phải ngừng suy nghĩ,
“nhỏ cưng” ạ!. Chỉ nên nhớ rằng, nếu Thượng Đế nhân lành, Người sẽ cho bố cháu
mạnh khoẻ trở lại, và rồi cháu có thể yêu ông vì ông là bố cháu, và yêu thích
ta vì ta biết chơi đàn vĩ cầm. Vậy thì bây giờ. – Ông vỗ vai tôi. - đi về nhà và nhớ rằng bất cứ khi nào cháu buồn
rầu hay cô đơn, người bạn già Nikolai Barshinskey này sẽ có mặt để an ủi giúp đỡ.
Ông đứng dậy và chìa tay ra
cho tôi nắm lấy. Sự tiếp xúc luôn luôn cho tôi một cảm giác an toàn, ấm áp , được
bảo vệ. Tôi biết là ông không thể làm mọi việc trở nên đúng đắn, nhưng bỗng nhiên
tôi không còn thấy quá cô đơn nữa.
Đêm đó không ai trong nhà
chúng tôi ngủ được bao nhiêu. Trước khi lên giường, tôi xin phép được vào thăm bố, Edwin và tôi hai đứa
đi vào đứng ở bên giường. Đầu của ông quấn chặt băng và gương mặt ông mang một
màu xanh tái nhìn thật kinh hoàng. Suốt đêm, hình ảnh đó chập chờn trong đầu óc tôi, và tôi có thể
nghe thấy tiếng Edwin húng hắng ho trong
phòng bên kia. Tôi muốn qua đó với anh. Nhưng rồi tôi lại nghĩ, như vậy sẽ bỏ lại
Lillian một mình, và chị cũng chẳng ngủ nghê gì. Trời vừa rạng sáng, chị đã tốc mềm chui ra khỏi giường , lấy áo choàng
ngủ khoác lên người.
- Chị đi đâu vậy?
- Đi coi mẹ ra sao rồi.
- Chị hỏi xin mẹ
cho em vào thăm bố.
Lillian không trả lời. Chị
bò ngang qua phòng Edwin và rồi tôi nghe
tiếng thì thầm ở phòng ngủ phía trước. Mẹ suốt đêm ngồi trên cái ghế dựa cạnh đầu
giường. Tiếng thì thào cứ tiếp tục mãi. Cuối cùng, không chịu đựng nổi, tôi vội
vã băng qua phòng Edwin, không thèm giữ thật yên lặng, đi vào phòng bố.
Mẹ và Lillian đang chúi đầu xuống giường, cái dáng đứng của họ làm tôi sợ hãi điếng hồn:
- Chuyện gì xảy ra cho bố vậy?
Hai người quay lại, nhưng gương
mặt của họ không như tôi tưởng tượng. Tôi lao mình tới . Bố tôi nằm đó và mắt ông
đã mở. Một con mắt thì bị tím bầm nhưng con mắt kia vẫn bình thường như cũ.
- Bố. – Ông cố hé một nụ cười
nho nhỏ.
- Bố đỡ rồi chứ? – Ông nhắm
mắt lại, nhưng nụ cười vẫn còn thoáng trên môi. Và bố vẫn đang thở.
- Mẹ! Rồi bố sẽ bình phục chứ?
- Đi về phòng ngủ đi con. –
Bà mệt mỏi trả lời.
- Nhưng bố có khoẻ lại không?
- Chúng ta phải để cho bố
nghỉ ngơi. Như vậy hy vọng bố sẽ khoẻ lại.
Tôi úp mặt vào bàn tay bố đang
thò ra ngoài tấm mền và trong tim lấp đầy
hy vọng, hơn bất cứ gì. Nỗi kinh hoàng
trong đêm đã giảm bớt một ít. Bàn tay bố
cuối cùng đã ấm lại, và tôi còn nghe
được một chút mạch đập yếu ớt trong đó.
- Tay bố đã hồng hào ấm áp rồi
mẹ! – Tôi thì thầm. - Vậy là dấu hiệu tốt phải không mẹ?
Mẹ không trả lời, nhưng bà thẫn thờ vỗ nhẹ vai tôi.
- Con có thể ngồi với bố được
không mẹ? Con sẽ giữ thật yên lặng, không di chuyển cũng không làm ồn.
- Không được, con gái.
Lillian ở với mẹ được rồi. Mẹ muốn con về phòng ngủ của con thật ngoan, chờ bác
sĩ đến coi sao đã…
Với âm giọng đó của mẹ, tôi
biết mình không nên cãi, vì vậy tôi trở
về phòng ghi nhớ lấy hình ảnh bàn tay ấm áp của bố và nụ cười trên khuôn mặt ông.
(Xem
tiếp chương 7)
No comments:
Post a Comment