Chương 8
Bắt đầu tai hoạ
K
|
hi tôi tới nhà xứ buổi sáng hôm sau, vào lúc bảy giờ thay vì bảy giờ
rưỡi, để thấy bà đầu bếp đang ở trong một
tình huống run rẩy, phân vân, hỗn loạn.
Phòng rửa chén chất đầy chén đĩa chưa rửa từ tối hôm trước, và bà đầu bếp
vẫn còn đang loay hoay với những khay trà cho bữa điểm tâm mà đáng lẽ chúng đã
phải sẵn sàng để bưng lên rồi.
- Họ đang rung chuông hỏi bữa
ăn sáng kìa. Và cả bà Gallagher nữa. Bà ấy
ngồi canh ở trong phòng ông ta suốt đêm qua. Còn nó thì bỏ đi đâu mất. Nó
bỏ đi mà không rửa ráy đồ dùng tối qua, sáng nay cũng chẳng thèm dậy đốt lửa lò
nữa. Bây giờ cô bắt đầu rửa mấy cái bình
dơ đó. À không, coi mấy bình nước đã sôi chưa, rót vào mấy bình trà này. Cứ để
lò tiếp tục nấu đi, họ cũng đang cần nước nóng để tắm rửa. Mình ta làm không xuể.
- Bà có muốn cháu mang mấy bình
nước này lên không bà Puddingoyle?
- Có. À không, để ta mang mấy
khay trà này lên trước…Đây, được rồi…Cái bình nước sôi rồi kìa. Cái bình nhỏ đó. Ta sẽ mang lên cho họ. Còn cô bưng lên cho bà
Gallagher. Bà đang ở trong phòng của ông Hope-Browne. Cô biết phòng đó ở đâu rồi
phải không?
- Chưa biết.
Thật đáng sợ, bà đầu bếp bỗng
bật khóc, trông bà giống như một chiếc bánh ngọt bọc đường lớn bị đập nát thành nhiều mảnh.
- Ta sẽ phải làm gì? – Bà nức nở một cách giận
dữ. - Cha mẹ của ông ấy hôm nay sẽ tới.
Lại thêm việc chăm sóc người bệnh nữa. Thật quá sức mà. Ta sẽ phải cho bà ta biết
chứ!
- Hãy ngồi xuống uống một tách
trà đi bà Puddingoyle.
Tôi nhỏ nhẹ nói, đó là cách
người ta thường nói trong trường hợp cấp thiết, và có vẻ như hiệu nghiệm, bởi tôi
thấy bà rơi mình xuống ghế tại bàn ăn và
tự rót cho mình một tách trà từ cái khay trà sắp mang lên cho ông bà Lovelace.
- Từ sau ngày hôm qua, không
kể đến đêm hôm trước nữa, ta thấy hết, cô bé có biết không. Chính ta đã cứu sống
ông ta. Và từ hôm qua tới giờ, sau khi bác sĩ tới cứ phải liên tục bơm rửa. Cô chẳng bao giờ thấy tình trạng lộn xộn như thế. Lại còn phải nấu nước pha trà suốt ngày. Và
ta còn phải ngồi coi chừng ông ta đến khi họ gọi được bà Gallagher đến. Và bây
giờ nó lại bỏ đi. Ta bước xuống đây sáng nay, củi lửa chẳng thấy chỗ nào đốt lên,
chén bát đêm qua chưa rửa, điểm tâm sáng chưa làm, chẳng có gì được làm cả…
- Ai thế! – Tôi hỏi nhưng biết
thừa ai.
- Cái đứa con gái đốn mạt đó.
Đáng lý không nên cho nó vào đây. Thật
không hiểu bà Lovelace làm cái gì nữa. Cái đứa con gái đó toàn sinh chuyện. Thế mà bằng cách nào đó nó có thể
mà mắt thiên hạ. Ta chỉ biết điều đó khi nhìn cái bản mặt nó ngày hôm qua.Thấy
hành động của ông ta, nó sợ hãi quá đến nỗi không chịu thay phiên vào phòng chăm
sóc cho ông. Đến cả việc đi mang đồ vào
phòng cho bà Gallagher cũng không dám vào.
Bây giờ lại bỏ trốn. Chắc nó bỏ đi
hồi đêm. Giường nệm trong phòng còn phẳng
nguyên không có dấu nằm . Cô có thấy nó ở nhà không?
- Dạ không thưa bà! Nhưng ngày
hôm qua cháu bị bệnh nên cũng không ra khỏi nhà.
- Mọi chuyện xảy ra cùng một
lúc, thật quá sức chịu đựng. Họ vẫn nghĩ là ông ta có thể chết. Đó là một thứ dầu
xăng. Cô coi, ta thấy ông ta ngay khi ông vừa đưa cái chai vào miệng. “ Lạy Chúa
tôi! Ông làm gì thế ông Hope-Browne?” Ta la lên, ngay ở trong căn bếp này, và cái
chai Lysol đã ở trong miệng ông. Nếu ta
không xuống đây tìm vài viên thuốc, có lẽ
ông ta đã nằm chết trên cái sàn bếp này.
Một sự ớn lạnh chạy trong
người lan xuống tận hai bàn chân tôi, và chuyện ông Hope-Browne đêm trước nữa mà
tôi đã quên bỗng bừng lên trong trí.
- Chuyện xảy ra khi nào thưa
bà? – Tôi thì thào.
- Đêm thứ Bảy. Nó đến với đám
ca giảng. Và đáng lẽ nó đã phải trở về từ lâu nhưng nó đã không về. Ông ta cứ lên
xuống để coi nó về chưa. Cuối cùng ta đi lên phòng ngủ và rồi nghe tiếng nó
chạy lên cầu thang, và tiếng ông ta la lớn. Rồi mọi sự yên lặng. Ta đi
xuống bếp lấy mấy viên thuốc và thật cám ơn Chúa về việc này. Ta đã cướp lấy đập
bể nó trước khi ông ta kịp nuốt vào. Nghe tiếng ta la, họ đi xuống, nhưng lúc đó
ông ta đã ngã quỵ nằm bất tỉnh dưới sàn.
Bác sĩ bảo là ông ấy nghĩ rằng ông ta chưa nuốt vào bụng chút nào, nhưng tốt hơn
hết vẫn nên cho ống rửa vào bụng ông ta. Công việc rửa ruột gần như suốt đêm: đổ
sữa vào, rất là nhiều sữa. Có điều gương mặt của ông ta đã bị phỏng…
Bà bỗng nhiên ngừng lại, chăm
chú nhìn tôi, chợt như đề phòng những điều bà đang nói.
- Mang tách và dĩa tới đây để
ta đem lên trên ấy.
Tôi nổi lạnh đến nỗi tê cứng
người. Vừa đi lấy tách dĩa từ trên kệ xuống vừa nhớ đến chuyện ngồi uống sô cô
la với bố đêm trước tuyệt trần biết bao.
- Hãy quên những chuyện ta nói
đi Sophie! Không được nói với ai về những gì ta nói đó…. Đây, hãy ngồi xuống uống
một ly trà đi.
Bà lượn quanh tôi một lúc rồi
mang khay trà đi. Khi bà đã đi khỏi. tôi đi lại bồn bắt đầu công việc rửa chén
bát.
Tôi chuẩn bị các bình nước nóng xong xuôi, đi vào phòng ăn
dọn bàn, phục vụ khay trà điểm tâm cho bà Gallagher trong phòng bệnh nhân, dọn
dẹp phòng khách và đốt lò sưởi trong đó lên sẵn sàng để đón cha mẹ ông
Hope-Browne. Sau đó tôi đi rửa ráy chén đĩa
sau bữa ăn sáng, phụ giúp bà đầu bếp dọn dẹp phòng ngủ của ông cha xứ, không
nghĩ ngợi gì. Tôi cố hết sức để không nghĩ đến bất cứ chuyện gì, nhưng rõ ràng là lỗi ở tôi. Nếu tôi đã không nói gì
với ông Hope-Browne thì đã không có chuyện gì xảy ra. Lạy Chúa, xin đừng để ông
ấy chết. Nếu ông chết sẽ là lỗi tại tôi. Tôi sẽ mang tội giết ông.
Tôi làm việc hết sức mình để
khỏi phải suy nghĩ. Đồng thời tôi cho rằng nhờ tôi siêng năng làm việc, Chúa có thể ghi nhận thành tích nhỏ nhoi này để cứu sống ông Hope-Browne. Tôi tự vẽ ra những mục
tiêu mình phải đạt được: Nếu gọt rửa hết đống rau khoai này trước mười giờ rưỡi
sáng, ông ấy sẽ không chết. Nếu cái bậc cấp trước cửa vừa lau kịp khô trong vòng
năm phút, các vết phỏng trên mặt ông sẽ lành…
Thỉnh thoảng đầu óc tôi lại
trở về với đêm thứ Bảy: Nếu mẹ đã cho phép
tôi ra khỏi nhà đêm đó, thì đã không có chuyện gì xảy ra. Có lẽ tôi đã canh chừng
được Galina không bị mê hoặc như những đêm trước và đã chẳng có chuyện. Nếu tôi đừng bảo ông Hope-Browne đến đó để ngăn cản cô
ta, có lẽ ông đã không nhìn thấy cảnh cô tháo tung nút áo trên cái bục gỗ, và như vậy
thì ông đã không về nhà và uống Lysol tự
tử. Nếu…nếu… Những làn sóng hoảng sợ đến lạnh xương sống cứ thỉnh thoảng lướt qua người tôi. Những lúc ấy, tôi đã chà
xát, kỳ cọ hay lau chùi mạnh mẽ gấp hai
bình thường, cố xua đuổi chúng bằng công
việc đang làm.
Bà đầu bếp sai cậu bé làm
vườn mang đến nhà nhắn mẹ, xin cho tôi ở lại sau bữa trưa để làm
luôn buổi chiều vì không có Galina. Nhưng vào mười hai giờ rưỡi, Edwin đã có mặt
ở cửa sau để đón tôi về nhà.
- Nhưng tôi giải thích cho mẹ
cậu rồi cơ mà! – Bà kêu thét lên – Tôi đã gửi lời nhắn cho biết
ở đây đang phiền phức ghê lắm, tôi cần Sophie ở lại giúp một tay.
- Mẹ cháu nói nó về nhà ăn cơm đã. – Edwin trả lời
thật cương quyết. - Rồi mẹ sẽ cho biết buổi chiều nó sẽ trở lại làm hay không.
- Làm sao tôi có thể lo hết
mọi việc nếu con bé không trở lại?
Edwin không trả lời. Anh đứng
đó bất động, một sự im lặng bướng bỉnh,
cho đến khi tôi mặc áo khoác vào và theo anh về nhà.
- Cô ta bỏ trốn theo đám người du hành ca giảng . – Edwin nói giọng không
một chút xúc cảm.
- Sao anh biết?
- Peter Hayward đã trông thấy họ
tối qua. Họ ra đi về hướng Eastbourne và cô ta ngồi trên xe chung với họ.
- Ồ! – Tôi cố tìm coi có phải
cũng là lỗi của tôi không.
- Cô ta còn lấy đi cây vĩ cầm
của ông bố nữa. -
Một dấu vết cuối cùng còn lại
của tuổi ấu thơ ập vào người tôi bằng một
nỗi đau đớn của sự thất vọng não nề. Tất
cả mọi chuyện đều là cơn ác mộng, là tội lỗi gớm ghiếc hơn là trí tôi có thể hiểu.
Nhưng, như một đứa trẻ con, tôi đã muốn bật khóc với cái ý nghĩ là từ nay tôi
chắc không còn được nghe ông Barshinskey
chơi vĩ cầm nữa.
- Ông ta đã bỏ đi tìm cô con
gái. – Edwin nói.- Ông ta bảo sẽ mang cô
ấy về. Ông bỏ đi mà không hề nói một tiếng
với ông Hayward, và bố thì lại đang nghỉ
dưỡng bệnh. Ông Hayward nói giờ ông chẳng biết làm gì. Con (bò) Lady
Audley lại đang sắp đẻ vào bất cứ lúc nào.
- Tức cười quá phải không?
Gia đình họ chỉ mới vào làng ở có vài tháng.
Và bây giờ, vì hai người họ bỏ đi, chẳng
ai làm được việc khi không có họ.
- Ivan có lên trên nhà
Hayward và tình nguyện phụ giúp. Anh ta
cũng khá rành việc vắt sữa và tao đoán
anh ta sẵn sàng dọn dẹp phân cỏ trong chuồng bò. Bà Hayward giờ cũng phải ra vắt
sữa. Bà hỏi em có muốn đến giúp một tay
cho đến khi ông Barshinskey trở lại không?
Em có muốn đến đó hơn là nhà xứ không?
- Em phải trở lại nhà xứ. Họ
cần em hơn là nhà bà Hayward.
Edwin nhìn tôi chăm chăm:
- Tình trạng ông ấy tệ hại lắm
sao?
- Rất xấu.
Sau khi ăn xong bữa trưa, mẹ
hỏi tôi có thấy cần phải trở lại nhà xứ không.
Mẹ nói bà đã nói chuyện với bố và cùng kết luận rằng chỗ cần thiết hơn là
ở trên đó. Dù gì, ông Barshinskey cũng sẽ trở lại nông trại Hayward bất cứ lúc nào. Vả lại, ở đó
không có tình trạng thập tử nhất sinh như ở nhà xứ.
Vì vậy, tôi đã trở lại nhà
xứ vào buổi chiều và thêm ngày hôm sau.
Cuối cùng việc tôi mặc cả với Chúa đã được chấp nhận: ông Hope-Browne đã
không chết.
Vào cuối tuần, cha mẹ ông đưa
ông về nhà. Bà mẹ ông khóc nhiều. Bà là một người cao lớn không giống con một
chút nào. Bà luôn nắm lấy tay ông khi
người ta cáng ông đưa ra xe. Lúc này, nửa dưới của khuôn mặt ông
Hope-Browne được che bởi một tấm khăn lụa cột ngang, trông ông rất gầy ốm. Thật
không thể nào tin được có ai có thể xuống
ký nhanh như vậy chỉ trong một tuần.
Tôi đã hy vọng ông quay đầu
lại nhìn tôi. Tôi chỉ muốn nhìn đôi mắt của ông, coi ông có phiền trách
tôi vì những việc tôi đã làm không, nhưng dường như ông chẳng biết tới bất
cứ ai ở đó. Ông không nhìn ai cả, kể cả ông cha xứ, và ông cũng chẳng nói lời giã
biệt.
Sau đó tôi mới biết ông không
thể nói câu chào giã biệt. Ông Hope-Browne sẽ không bao giờ có thể nói chuyện
được nữa ngoài tiếng thì thào trong cổ. Cái chai Lysol đã huỷ hoại thanh âm trong cổ. Ông cũng sẽ không bao giờ
hát được nữa.
(Xem
tiếp chương 9)
No comments:
Post a Comment