Trôi theo mùa hè_ 10


                                                                      Phần II
     
                             Chuyện Edwin và Daisy May 

                                                Chương 10

                            Lần đầu lần cuối


       Khi đang ngồi trên bao lơn của hí viện có tên Tân Thập Tự Đế, anh chợt nhìn thấy Galina. Thật là một cú sốc, không tin vào mắt mình đến nỗi anh nghĩ mình  đang bị ảo tưởng do một loạt những công việc đổi phiên quá dài ở trạm điện. Anh nhìn qua bên cạnh sân khấu: Số Chín, và rồi cúi  xuống đọc tờ  chương trình: Đó là Olga,nàng Công chúa Kỵ Sĩ Cốt Sách. Nhìn lên sân khấu: dưới bộ trang phục gồm cái áo hai màu vàng trắng và chiếc váy cuốn phồng rủ xuống ngang đầu gối cùng đôi giày cao gót màu đỏ, đó  chính là Galina của thời thơ ấu. Ban nhạc rít lên loại âm nhạc đường phố cuồng loạn, và nàng Công Chúa  Cốt Sách xứ Olga nhún nhảy bước ra giữa sân khấu, lột bỏ cái mũ màu vàng trắng trên đầu xuống và bắt đầu nhảy múa.
      Bỗng nhiên, đầu óc anh trở lại ký ức của mười hai năm trước.  Lúc ấy anh vừa mười ba, đứng bên cửa sổ phòng ngủ nhìn  đám lửa bên khu vườn căn nhà “tổ cú”, với đứa con gái tóc đen nhảy múa chung quanh. Anh cảm thấy trong lòng nôn nao không thể tả và trong phút chốc có cảm giác hoảng hốt, cảm giác bị vây hãm làm anh muốn thoát ra khỏi nơi này thật nhanh. Anh vội nhìn quanh xem có ai để ý  tới nỗi lo sợ toát mồ hôi của anh không. Dĩ nhiên là không. Họ không nhìn anh mà đang chú tâm vào nàng Công Chúa Cốt Sách trên sân  khấu. Vì vậy, với sự miễn cưỡng, anh tự ép mình ngồi yên để lấy lại sự bình tĩnh. Anh đảo mắt nhìn lên sân khấu một lần nữa.
     Anh bỗng trở nên kích động và nhẹ nhõm ngay tức thì. Kích động vì cô ta vẫn xinh đẹp. Nhẹ nhõm vì cú sốc ban đầu đã qua đi, lúc này  anh tin rằng mình đủ già dặn để không choáng ngợp bởi cái vẻ đẹp đó, bởi cái  cuộc sống đầy rung động và cao ngạo   mà nó đã từng làm anh khó chịu khi  anh còn nhỏ.
            đã trình diễn xong điệu nhảy. Có người từ trong cánh gà bước ra trao cho cô cây vĩ cầm và cái cần kéo. Cô  đưa tay cầm lấy chúng, với một cử chỉ hơi ngây ngô và  đầy kịch tính, tay giơ cái cần kéo lên không, một chân giậm mạnh  chiếc giày cao gót xuống sàn và bắt đầu kéo đàn.
     Các giai điệu được lựa chọn kỹ càng. Những điệu nhạc xứ Slave chua cay độc đáo mà cha của cô thường chơi thuở trước  có lẽ đã chưa từng  được chơi trong các đêm thứ Bảy  ở tại hí viện này. Đây là những bài hát  dân gian, dễ hiểu mà đám khán thính giả với mớ đồ uống miễn phí vừa thưởng thức vừa hoà đồng hát theo. Khán thính giả vui thích. Dù chưa đáng đồng tiền bát gạo so với giá vé phải trả, cũng có thể nói tạm đủ cho phần đầu của chương trình. Rồi khi mọi người còn đang ngây ngất với những dòng nhạc  phổ thông cũ, cô buông cây đàn xuống , giơ hai tay lên không, chờ đợi. Ánh đèn được rọi thật thấp để chỉ thấy cô đứng trong một vòng tròn rực sáng. Khán thính giả, những người đã  có kinh nghiệm hí trường, biết rõ mình  phải làm gì và họ nín  lặng. Và trong sự im lặng, tiếng trống của các chàng kỵ sĩ Cốt Sách nổi lên, cùng lúc với những bước đầu tiên của Olga: cô nàng Galina thuở nhỏ của anh.
     Tất cả chỉ là màn trình diễn rẻ tiền: từ ánh đèn, đến tiếng trống nhè nhẹ, nhưng  lại ăn khách. Và khi tiếng trống trở nên lớn hơn, chát chúa dồn dập hơn, bước quay cuồng của Galina cũng rộn rã hơn, thân mình cô lắc lư đến tưởng như có thể bứt ra khỏi cái eo thon nhỏ xíu. Chiếc  váy màu vàng trắng  được tháo tung, để lộ bộ đồ lót cũng màu vàng trắng và bên dưới là , thật chấn động, cặp đùi nâu dài trần trụi  với đôi ủng cao. Mái tóc đen dài của cô tung bay quanh gương mặt. Bỗng nhiên cô trở lại y hệt như ngày xưa: khuấy động một cách vừa man dại vừa cuốn hút.
     Một  xao động nhẹ đập  vào trong tâm trạng của Edwin, không hẳn là vì việc cô vừa làm, mà vì nó gợi lại cái mùa hè của mười hai năm trước, cái mùa hè  mà chính thân xác anh đã tra tấn anh, khi anh đã lần đầu chứng kiến  cái hành động tàn bạo thiếu suy nghĩ; khi mà, cho dù ghét cô, anh vẫn không thể nghĩ đến chuyện gì khác ngoài cái thân hình của cô, mùi  vị của cô, cùng ánh mắt hừng hực đầy chế giễu của cô.
      Phải mất một thời gian dài trước khi anh lấy lại tinh thần sau mùa hè ấy. Có lẽ, nếu ở trong một gia đình ít bảo thủ, ít nề nếp hơn, anh đã có thể hồi phục sớm hơn. Nhưng với gia đình anh, gia đình Willoughbys, với thói quen sợ hãi việc bày tỏ cảm xúc,  ngần ngại nói về hạnh phúc hay sự đau khổ hay bất cứ gì không có  vẻ bình thường và đáng nể trọng, đã không giúp  cho một đứa con trai  đang chịu đựng sự  hoang mang và sự bất ổn của tuổi vị thành niên.
     Chẳng có ai để anh có thể tâm sự, bởi ai có thể hiểu được anh vừa ghét lại vừa mang lòng yêu thương một đứa con  gái đê tiện của một gia đình giống như ăn mày? Những ngày trước cái mùa hè đó, anh có thể trò chuyện với Sophie. Nhưng kể từ sau Galina, anh và Sophie đã bị ngăn cách  bởi một hố sâu to lớn giữa trai  và gái.
     Vả lại, anh cũng phát hiện ra rằng con nhỏ Sophie có xu hướng đầu hàng cảm giác, và với một trạng thái thất thường  khộng thể giúp gì anh vào lúc đó. Con bé lại còn hoà nhập quá sâu nặng  với gia đình Barshinskeys  đến khó có thể giúp đỡ anh. Mùa hè năm ấy, con bé gần như hoang dại và quá tình cảm y như gia đình ấy.
     Sau cái mùa hè vừa đáng yêu vừa đáng sợ ấy, anh dần dần lấy lại lương tri, sự thăng bằng,  sự bình tĩnh và tính kỷ luật. Mất đến hơn một năm trời trước khi, bỗng nhiên có một ngày anh nhận ra rằng mình không còn bị  ảnh hưởng với nỗi đau riêng mình, đời sống trở nên  mang nhiều hứa hẹn vui tươi hơn. Anh đã sống một năm  đầy đau khổ, vô lý và không thích đáng ở trạm xe lửa của ông Watkins, đã tìm thấy trong đó  sự an bình  êm ái của cuộc sống bình thường không thể tìm được nơi khác. Bây giờ, ở tuổi hai mươi lăm  chín chắn nhìn lại, anh thấy vui thích vì sự quỉ quái của một thằng con trai,   cố chữa  lành trái tim tan nát của mình  trong việc  lau chùi đồ đạc và quét dọn sân ga của làng, và chính  trong việc  thi hành những nhiệm vụ tầm thường hàng ngày ấy mà anh đã tìm lại được tinh thần của mình.
     Có một quãng thời gian anh đã có ý  muốn bỏ nhà đi như Ivan Barshinskey, khi anh tưởng rằng mọi sự sẽ chẳng bao giờ bình thường trở lại, với hằng đêm tâm trí bị trăn trở, hành hạ khi nghĩ về  những chuyện của  Galina và ông Hope-Browne, cô ta và ông bố, và cô ta với ông thày giảng du ca. Anh đã  bắt đầu thấu hiểu  sự tàn bạo của ông Barshinskey từ những đêm  đó. Cái tàn bạo dường như là cách duy nhất để  làm bớt đi nỗi thống hận trong lòng.
     Nhưng cuối cùng rồi sự ổn định và bình an cũng đã được hoàn trả lại. Một  khi đã trở lại, anh thấy là sẽ không bao giờ muốn  có bất cứ bạo lực hay xúc cảm nào xảy đến trong đời lần nữa.
    Cũng lạ lùng, cơn khủng hoảng của anh đã tạo ra những kết quả tích cực: Để tránh suy nghĩ, anh làm việc  cật lực tại nhà ga, việc học tập bền bỉ của anh dưới con mắt độ lượng của ông Watkins đã làm mọi người nhận thấy rõ ràng , thế nào anh cũng vào làm việc  trong ngành hoả xa, không chỉ trong ngành này, mà sẽ ở trong bộ phận chuyên về đầu máy tân tiến. Ông Watkins đã tìm ra cho anh được ba tài liệu để tham khảo và  chỉ dẫn anh làm tốt với bài khảo sát. Ông lại cũng kiếm cho anh các đơn từ để xin việc với một trạm ga tại khu vực Ba Cầu. Edwin lên đường nhận việc với bộ đồ công nhân áo  liền quần có mũ, giầy cao cổ có mũi thép và đế  đinh cùng với một lá thư tay  giới thiệu gửi cho viên trưởng trạm. Anh bắt đầu nghề nghiệp là một  người lau chùi đầu máy xe lửa với lương mười bảng Anh và sáu xu một tuần. Edwin, đứa con thứ hai  của dòng họ Willoughbys mang vinh dự về cho gia đình: anh sẽ trở thành người lái xe lửa.
     Sự hăng say của anh chưa bao giờ bị lung lạc. Năm tháng sầu khổ  đã bỏ lại phía sau. Quả thực, trong cái kỷ luật khắt khe của nơi làm, có đôi khi anh tự hỏi mình cái năm tháng buồn khổ đó có thật không và  việc bạo hành của gia đình Barshinskeys có thực đã xảy ra không? Anh biết mình là một con nguời trẻ rất bình thường, và một anh chàng bình thường thì không bỏ cả năm trời sống trong vọng tưởng những chuyện kỳ quái. Nếu trong sâu thẳm của tâm trí mà sự bồn chồn còn đâu đó, anh cũng phải tàn nhẫn chinh phục nó. Anh nhìn về phía trước với một cuộc sống đầy sinh động và thích thú trong công việc. Anh còn trẻ và đang ở ngưỡng cửa  của một nghề nghiệp chứa đựng hầu như những gì mà anh đã mơ ước.
     Và anh đã hoàn thành tốt. Dĩ nhiên, con nhà Willoughbys  sẽ làm tốt thôi. Năm hai mươi mốt tuổi, anh xin chuyển đến một cơ xưởng ở Luân Đôn, một phần vì nghe nơi đây mau tiến thân hơn, phần khác    vẫn chưa kiềm chế được sự nóng lòng. Từ cái mùa hè có gia đình Barshinskeys, anh đã biết  đời sống của bố mẹ anh  chật hẹp và hạn chế biết bao. Nghĩ về việc phải sống suốt đời tại một nơi chốn như ông bà đã sống  làm anh thấy ngộp thở. Anh phải ra ngoài , đi đây đi đó , ngắm xem sự vật, những thứ mới lạ, lấy kinh nghiệm cho cuộc sống mà bố mẹ khó có thể hiểu.
     Bây giờ, sau bốn năm  ở Luân Đôn, khi về nhà , anh đã mang nặng  một niềm say mê thành phố lớn. Trên người là bộ đồ lớn với đôi giày da dưói chân thay cho ủng cao, lại còn để ria mép. Anh có tiền và tiêu xài khá rộng rãi, cũng không bao giờ quên gia đình và cả Daisy May, con bé mà thật là lạ, anh đã không kết bạn với nó trong những ngày gia đình Barshinskeys  sống ở đó.
     Đối với anh, Daisy May là một con bé anh đã cứu trong lúc bị bọn Jeffords bắt nạt khi họ còn nhỏ. Ở đây anh có bạn hữu, hầu hết là  mấy anh chàng trẻ  làm chung xưởng. Anh có cuộc sống  ở Luân Đôn mà anh thích và gia đình anh không biết rõ lắm. Anh lại nghĩ đến có lẽ nhiều năm sau này, anh sẽ lập gia đình, nhưng rồi việc đó sẽ phải là một   việc  bình thản, mang tính nghi thức giống như quan hệ của bố mẹ anh vậy.
     Nhưng lúc này nhìn thấy Galina, bỗng nhiên anh nhớ lại mọi thứ: nỗi đau khổ, việc bạo hành, sự biến dạng  của thế giới tuổi thơ của anh.
     Âm nhạc trở nên dồn dập, ầm ĩ hơn. Galina xoay mình trên một chân, quay tròn giống như một  cơn lốc trắng vàng quanh sân khấu.  Cô là một vũ công giỏi giang, tài nghệ  hay hơn khi còn nhỏ. Đó là một màn vũ  nhiệt tình, khôn khéo và rất khêu gợi. Với hồi trống cuối cùng, một tiếng thét vang từ  các cây kèn  trâm pét, cô ngưng lại, hai tay bung lên không với nụ cười trên gương mặt.
     Anh đã không vỗ tay tán thưởng. Anh không thể vỗ. Nhìn cô ta đứng trên đó mỉm cười cúi chào, tay bung phồng chiếc váy, anh nghĩ  thật lạ biết bao khi nhìn thấy cô trên sân khấu. Người đã gây ra cho anh bao đau khổ, người chỉ  đã thoáng qua đời anh như một bóng ma, đến nỗi đôi khi anh tự hỏi không biết cô ta có thực sự hiện hữu bên ngoài trí tưởng tượng bức xúc của anh hay không. Nhưng anh đã không tưởng tượng ra cô, bởi cô đang đứng đó, xinh đẹp, và được ngưỡng mộ, đúng như – theo anh nghĩ – cô đã từng mơ ước.
-   Tao đi tìm cái gì uống. Mày cũng muốn chứ?
-   Hả? – Anh nhìn vào gương mặt ở bên cạnh mình, một khuôn mặt hiền lành và đầy mồ hôi. Sau một thoáng mới nhận ra đó là Bassy, thằng bạn làm chung rất thân và thường đi chơi với anh.
-  Cô ta coi được chứ hả? Mày đoán thử coi cô ta có mang vớ hay để chân trần?
     Hắn thúc cùi chỏ vào cạnh sườn Edwin và cười rộ lên. Edwin thình lình nghĩ khác về Bassy. Trong giây lát, anh muốn bỏ đi thật nhanh để  suy nghĩ về những dòng tư tưỏng riêng, nhưng giây phút chạnh lòng qua nhanh. Có lẽ tốt hơn là đừng bỏ đi để nghĩ về cô ta. Tốt hơn, hãy quên cô và ở lại coi phần kế tiếp của chương trình.
-   Tao đã từng biết cô ấy. – Anh nghe tiếng mình nói với Bassy. – Tụi tao quen biết nhau khi cỏn nhỏ.
-    Nói tiếp đi!. – Bassy (tên đầy đủ là Sebastian) có vẻ chú tâm, rồi hắn bỗng có khuôn mặt nhăn nhở nghi ngờ. -  Nàng công chúa Cốt Sách phải không? Quen biết một thằng (quê mùa) ở Kent như mày?
-     Bố cô ta là người Nga. Một người Nga chính gốc. Ông ta đã dạy cô ta chơi đàn. Và rồi cô lấy trộm cây đàn của ông bỏ đi làm ông tan nát cõi lòng.
-   Tưởng tượng ra là mày đã quen một nàng công chúa phải không Ed? - Mặt anh chàng sáng lên và anh ta lại thúc cùi chỏ vào sườn Edwin. Anh tránh xa ra một chút. -  Nếu mày thực sự quen cô,  mình hãy đi vòng ra cửa sau sân khấu lên tiếng  chào cô  đi. Tao chưa  từng bao giờ được hân hạnh  đi vào cửa đó cả.
-     Không, không nên làm thế.
-   Ái dà! Làm đi nào. Vui chút thôi mà. Coi cô ta nói gì? Tao muốn xem cô ta mang vớ  tiệp màu da hay để chân trần.
     Hai anh chàng công chức sở hoả xa,  trong bộ đồ đi chơi đêm thứ Bảy,  chầu chực ở cửa sau sân khấu để chờ gặp Galina…?
-   Không, Tao không muốn gặp. – Anh nói với giọng ngắn gọn, cộc lốc làm Bassy, con người nhạy cảm hơn  khuôn mặt bề ngoài,  ra vẻ  bị tổn thương.
-   Không cần phải  tỏ ra như vậy chứ! – Anh ta nói  với lòng tự ái bị xúc phạm và quay nhìn ra xa.
     Tiếp đến là một sự im lặng rất gượng gạo. Edwin lại trầm ngâm nghĩ về sự lạ lùng biết bao ngay khi Galina  lại đi vào cuộc đời anh, tuy nhiên  có sự trái ngược xa lắc: “Mình không  được phép để thành  bị khuấy động. Galina không còn quan trọng nữa. Cô ta chẳng bao giờ quan trọng cả.”
-     Tao đi mua đồ uống, Bassy! – Anh nói. Bassy không đáp lại. Do đó  anh len qua những chân người, những túi xách tay bằng da trăn đi ra ngoài. Anh mua  cho Bassy một chai, và để làm hoà, thêm một bịch khoai tây nướng, anh  để  nó trên miệng  hai cái ly trên đường trở lại ghế ngồi.
     Bassy, người không thể giữ sự giận hờn bực bội trong lòng quá lâu, đã nguôi giận và hai đứa ăn uống trong sự im lặng  hiền hoà. Marie Kendal đã kết thúc phần sau của chương trình hoà nhạc, và khi  Bassy tham gia  vào tiếng hát của người nghệ sĩ trong bài hát cuối, anh ta  đã hoàn toàn lấy lại tính khí hài hước của anh và cũng không  để ý đến việc Edwin đã không cùng mở miệng hát chung với khán giả. Trên đường về, họ vào tiệm bán cá và khoai chiên  để mua bữa ăn tối, vừa  đi vừa nhai; và rồi Bassy rời đường  Cầu Tháp rẽ vào chỗ ở của anh với tiếng chào vui vẻ:
-   Chúc ngủ ngon  Ed!  Gặp lại ngày thứ Hai. Nhớ ca làm khuya nghen!
     Còn lại một mình, anh có thể ngưng giả vờ vui vẻ thân mật, nhưng thật lạ lùng, anh thấy mình cần sự có mặt của Bassy. Anh trở nên xao xuyến, phiền muộn và biết chắc là đêm nay lại mất ngủ, phần vì đã gặp lại Galina. Nhưng đó chỉ là một phần. Anh cảm thấy bồn chồn lo lắng cho chính cuộc sống, chính tương lai của mình. Bỗng nhiên, dường như chẳng có gì để mong đợi, chẳng bao giờ có những khác lạ hay kỳ thú xảy ra cho anh. Anh rùng mình  và rồi tiếp tục bước đi.  Anh đã mong đợi hay mơ ước chuyện gì xảy ra? Có một công việc ngon lành, tốt hơn của bố và với đời sống đầy may mắn, đủ tiện nghi và được tưởng thưởng như thế chưa đủ sao? Giờ anh đã là người trưởng thành, không cần thiết  để đòi mua những thứ ở tận cung trăng không thể nào có được,  ngay cả khi biết  những thứ đó là gì.
     Anh tiếp tục bước đi, thẳng tới Cầu Tháp đứng nhìn xuống dòng nước chảy dưới chân cầu, một làn sương mỏng làm ướt tóc và quần áo anh. Cuối cùng, khi quay trở về nhà , anh thấy khá hơn. Galina chỉ là một phần nhỏ trong đời, chẳng qua như một  tiết mục ở rạp hát mà anh tình cờ được biết từ nhiều năm trước.
     Ngày hôm sau, anh được nghỉ, và như một thói quen trong những ngày Chúa Nhật thảnh thơi, anh về thăm nhà, hầu như coi đó là một nhiệm vụ, bởi anh đang ở một thời  điểm trong cuộc đời với những ràng buộc ngày trước và những kỷ luật xưa cũ ngày càng  giằng co trong tim.
-    Ồ! Tốt quá. Con về vừa kịp cho buổi họp đọc kinh sáng.
     Đó là lời chào của mẹ  làm anh tự hỏi sao mình phải hăm hở  đón chuyến xe lửa sớm từ Luân Đôn về vậy. Nhưng rồi sau đó, khi nhìn bố  đằng sau cái bục đọc sách Thánh trong sảnh đường và thấy ông đã già đi nhiều, anh bỗng thấy tràn đầy tình thương mến cho hai người, cho lòng trung thành tận tụy của họ với những tiêu chuẩn do chính họ đặt để. Lúc này, khi đã sống xa nhà, thoát ly khỏi họ cả về khoảng cách lẫn  sức ép của xúc cảm, anh thừa nhận bố mẹ là những người tốt lành,  tốt lành một cách đơn sơ cả về đạo đức  và lòng quảng đại.
 -   Bố mẹ vẫn bình thường chứ? – Anh bỗng hỏi nhỏ Lillian, nhưng  cô cau mặt với anh ra dấu im lặng với đôi bàn tay bắt chồng lên nhau đặt nằm  thật dễ thương trên cuốn Thánh Kinh. Như mọi người đã nghĩ, Lillian trở nên  xinh đẹp, cao lớn và mảnh mai với mái tóc bạch kim thật dầy. Bây giờ cô đã có phần hùn với người chủ tiệm may trong làng, lấy đi ngày một nhiều hơn công việc của cô Clark vì  thị lực của cô lúc này đã quá kém. Với sự tò mò, Edwin tự hỏi không biết cô chị của mình đã có ai từng đến cầu hôn chưa?  Đám gái trong làng cùng lớn lên với anh và không hấp dẫn bằng Lillian đã lấy chồng và hầu hết đã chấp nhận  cuộc sống với đồng lương thì nhỏ mà gia đình cứ lớn ra. Khi nhìn quanh sảnh đường, anh có thể thấy họ bây giờ là những người đàn bà trẻ mệt mỏi với mái tóc không còn chau chuốt và những đôi mắt ngượng ngùng bối rối. Khi anh liếc nhìn từ họ qua Lillian, trông họ như từ một chủng loại khác. Và bỗng nhiên, không ngăn cản nổi, hình ảnh của Galina lại hiện lên trong trí.
    Bữa ăn tối có thịt trừu lạnh, khoai tây chiên ăn với củ cải đỏ, giống y như những bữa ăn tối Chúa Nhật trong suốt hai mươi sáu năm qua. Và trong một tâm trạng kỳ lạ, anh đã ăn như đây là bữa ăn cuối cùng,  như một  buổi lễ  bao gồm những  nghi thức ở hình thức cũ nhưng rồi sẽ không bao giờ  như vậy nữa. Anh lại thấy có cảm giác bất an  về mối quan tâm  đến bố mẹ, lo là  họ có  bình an không  trong  sự đơn độc, mặc dù với Lillian vẫn còn ở nhà, họ không  thực sự cô đơn.
     Khi mẹ và Lillian đi vào rửa chén và pha trà, bỗng nhiên anh phá vỡ truyền thống cả đời của nhà và cố nói chuyện với bố ra vẻ thân thiết:
-   Bố à!  Bố mạnh khoẻ chứ? Bố mẹ, hai người  vẫn bình thường chứ?
     Bố   nhìn anh ngạc nhiên:
-    Có chứ con. Sao?  Sao bố mẹ lại không bình thường chứ?
-   À!... Chứng nhức đầu của bố. Bố vẫn còn bị chứ?
-   Chút chút, con à! Còn chút đỉnh. Nhưng ông Hayward đối xử với bố khá tốt. Ông vẫn dành cho bố một công việc ở nông trại  bao lâu bố còn có thể làm. Luôn luôn có một vài công việc cho bố.
-   Thế tiền bạc thì sao bố?  Khi bố đau ốm, bố đâu được trả tiền, và bây giờ bố đâu có được trả lương bằng hồi bố còn làm quản đốc ở đó?
    Gương mặt ông quả quyết. Quan tâm  thực tế về vấn đề tiền bạc là điều ông có thể hiểu.
-   Con đừng lo lắng. Bố mẹ sống được. Hai chị em Sophie và Lillian rất tốt với bố mẹ. Con cũng thế. Bố mẹ ô kê. Không cần phải lo lắng cho bố mẹ.
     Làm sao anh có thể giải thích?  Anh quan tâm đến họ điều gì? Theo một lối kỳ cục nào đó,  bố mẹ giờ  giống như trẻ con đối với anh, ngây thơ ngờ nghệch và tin tưởng vào thế giới quá mức. Họ không hiểu được  về nhiều thứ…về những xúc  cảm  bị vỡ nát và về những phiền phức của cuộc đời.
-   Bố mẹ sống vững vàng Edwin ạ!. – Ông lặng lẽ nói. -   Khi còn trẻ bố mẹ đã có những quan tâm lo lắng, nhưng bây giờ thấy các con đã ổn định cả.  Con và Lillian  có một tương lai khá hơn bất cứ ai trong làng, bố mẹ không còn gì phải lo lắng.
     Bàn tay ông  hơi di động trên mặt bàn, và trong thoáng giây Edwin nghĩ là bố anh sẽ tiến tới nắm tay anh. Nhưng rồi  bàn tay ông đổi hướng và ông gõ nhẹ trên mặt bàn.
-   Bố hy vọng là bố mẹ giờ có thể nghỉ ngơi. Sao con không  đi ra ngoài gặp mấy con bé  khi chúng hết giờ làm việc?
     Anh chịu thua. Những năm tháng trong vòng kỷ cương, trong sự kiềm chế cảm xúc không thể nào bị gạt qua một bên lề chỉ vì anh đã gặp lại Galina Barshinskey.
     Buổi chiều  rơi xuống trong tình trạng mơ màng tĩnh lặng của một ngày Chúa Nhật tháng Giêng sau một tuần làm việc vất vả. Trong khi anh thơ thẩn dọc theo con đường, anh lại có cái cảm giác lạ lùng về khoảng cách, về việc ngắm nhìn  mọi thứ lần cuối, như là chúng sẽ không bao giờ như thế nữa.
     Đó là một ngày trong sáng, với ánh mặt trời liên tục chiếu xuống đám cành cây nổi bật  màu xám đen trên khung trời. Lúc này anh đang mang đôi giầy đẹp nhất dành cho ngày Chúa Nhật. Nhưng với một ngày đẹp trời và tâm trạng của  anh lúc này, Edwin đã không ngần ngại leo qua cọc rào ở cuối đường đi băng qua cánh rừng để đến Nhà Trắng. Dưới những tàn cây là những mảnh sương trắng đọng lại  nhờ ẩn kín  khỏi cái nắng ấm trong ngày, và khi anh đi sâu hơn vào trong rừng, anh chợt thấy một cụm những mảng tuyết trắng dại bao quanh một thân cây. Chúng có lẽ  đã ở đó từ lâu lắm mà sao từ trước tới giờ anh không để ý đến? Rất nhiều lần những hạt sương nhỏ đọng lại trên những cành cây chằng chịt rơi rớt lên đầu lên cổ anh. Không cần thiết phải vội vã. Đám con gái  thường không  rời việc trước ba giờ rưỡi chiều. Họ còn lo  thu dọn  rửa ráy  cho xong bữa ăn trưa, lại còn chuẩn bị  trà nước cho bữa lót dạ buổi chiều. Họ luôn luôn cùng nhau đi về nhà, mặc dù Daisy May có nhiều việc phải làm hơn Sophie.
      Anh mở cánh cổng dẫn vào  con đường đi đến lối vào bên hông của Nhà Trắng. Khách của người giúp việc không được phép vào trong nhà Fawcett. Nhưng ngay cả bà Fawcett cũng không thể nào ra lệnh cấm thằng anh của người hầu gái của bà  đến chờ đợi em nó.
      Cửa nhà bếp của Nhà Trắng  tĩnh mịch như hầu hết nhà trong làng, vì  người đầu bếp và người  đốt lò hơi  được phép rời nhà ngay khi bữa ăn trưa được dọn lên bàn. Edwin gõ nhẹ lên cửa và Daisy May ra mở, cô vẫn đang mặc  chiếc áo làm việc buổi sáng  có hai mầu hồng và trắng đan chéo vào nhau.
-    Ồ! Anh Edwin!
     Giống như mọi người trong nhà, anh nghĩ về họ  như là “đám con gái”, và cái phản ứng của “đám con gái” mỗi khi anh về  luôn cho anh cái phần cảm giác êm đềm nhất của một ngày Chúa Nhật được nghỉ việc.
-    Bộ cô quên  bữa nay là ngày Chúa Nhật tôi được về nhà nghỉ sao?    
     Anh nhăn mũi cười. Daisy  May có vẻ sung sướng và đỏ mặt, cô lau hai bàn tay vào chiếc khăn nhà bếp.
-   Em cứ lẫn lộn với ngày anh làm và ngày anh được nghỉ. Ồ! Nhưng coi này! Em vẫn chưa thay đồ, nhưng  việc rửa chén bát đã xong và trà cũng đã pha sẵn sàng để được mang lên rồi.
-    Vậy thì mau lên!
       nhoẻn miệng cười  đi vào cởi bỏ cái  tạp dề mà bằng cách nào đó, dù làm bao nhiêu công việc dơ bẩn buổi sáng và rửa ráy những vật dụng bữa trưa đầy mỡ màng nhưng nó vẫn sạch bong.
-   Em không dám mời anh vào đâu. Hôm nay bà Fawcett có vẻ khó chịu sao đó.
-     Không có gì. Tôi chờ ngoài này.
     Cô biến vào trong, và vẫn để cửa mở. Anh dựa lưng vào cánh cửa với hai tay đút túi. Căn bếp của  nhà Fawcett thật rộng rãi với một hàng bếp đôi ở một phía và một kệ tủ treo đầy những nồi chảo bằng đồng sáng loáng. Nhân viên phục vụ nhà bếp gồm có người đầu bếp và Daisy May, vì thế anh biết ngay ai là người có nhiệm vụ giữ gìn nồi chảo sạch bóng. Một con mèo hung mập mạp  đứng  vươn người trên một tấm thảm nhỏ trước bếp lò, và rồi khi một luồng gió từ ngoài cửa  thổi vào làm lông nó dựng lên, nó quay qua nhìn anh chòng chọc.
-   Chào anh Edwin. – Sophie  bưóc ra trong bộ đồ ngày Chúa Nhật: Cái áo khoác mầu xanh đậm và chiếc nón nỉ phủ hết mái tóc cuộn lên của cô . Kể từ khi Lillian lãnh trách nhiệm đổi mới tủ quần áo trong nhà, Sophie trông chải chuốt hơn.
-    Đường chỉ của tà áo khoác của em bung ra rồi  kìa!
-   Ồ! Kệ nó anh à! - Cô bước qua đeo lấy cánh tay anh. -  Cái mụ già đó  hôm nay bẳn gắt với Daisy May. Bà ta luôn luôn bực bội với cô ấy trong các ngày Chúa Nhật, ý không muốn cô ấy về nhà chúng ta và đi đến nguyện đường. Bà ta luôn tìm cách để bắt cô làm thêm việc vào những ngày Chúa Nhật cô được nghỉ.
-   Anh có mua cho cô ấy một hộp kẹo sữa. – Anh nói và gương mặt cáu kỉnh của Sophie bèn tươi  lên ngay.
-    Ồ Edwin! – Cô nói. – Anh thật tốt bụng. Daisy May thích lắm đó.
     Đi giữa hai cô trên đường về nhà, anh nghĩ hai đứa thật dễ thương biết bao. Trong bốn người họ, anh và Lillian hầu như đã thành tựu hơn, đã bước lên được một nấc mới trong cái cấu trúc giai cấp xã hội và mang niềm hãnh diện cho gia đình. Nhưng sự thật mà nói, Sophie và Daisy May mới là hai đứa dễ thương, ngoan ngoãn, sẵn sàng làm vui lòng mọi người với cái nhiệt tâm tự nguyện nhất. Anh coi hai đứa cùng là em gái, một phần  vì chúng  thật giống nhau, chỉ trừ là Sophie thì luôn luôn luộm thuộm dơ dáy hơn, phần khác vì hai đứa trung thành với nhau như bóng với hình. Edwin đoán cuộc sống của Daisy May ở Nhà Trắng chắc không dễ dàng. Cô cần có người bạn tốt như Sophie bên cạnh.
     Sau đó quanh bàn ăn,  anh nhận ra  hai đứa đã mang lại sức sống cho căn nhà ra sao. Tiếng chuyện trò của Sophie, gương mặt  nhỏ nhắn rạng rỡ tươi cười của Daisy May đã làm cho căn nhà vắng lặng tràn đầy sinh khí. Bữa ăn tối thật vui trong khi buổi ăn trưa thật thảm não. Ngay cả buổi cầu kinh tối ở sảnh đường cũng vui hơn khi có hai đứa con gái hiện diện. Sophie quay qua anh và nháy mắt khi buổi cầu kinh kéo quá dài. Cô ngồi  mân mê cái lỗ thủng trên cái bao tay khi họ đọc sách. Daisy trông gọn gàng sạch sẽ và sung sướng, nhưng với sự nhớ lại  điều tiên đoán ảm đạm  đã bám theo  suốt ngày, anh bỗng cảm thấy  buồn cho cô kinh khủng. Cô có quá ít thứ.
     Anh chuẩn bị đưa hai cô gái trở lại Nhà Trắng sau buổi cầu kinh và thấy bối rối khi khám phá không chỉ có mình anh.  Có hai anh chàng  bước đi theo và tự cho mình có quyền  đi chung đám. Có một lúc, anh thấy mình  tự kiếm cách để đi lui lại phía sau một mình.  Nhưng chỉ là một giây phút ngắn ngủi, Daisy nhìn quanh rồi đứng lại chờ anh.
-    Cám ơn anh Edwin nhiều lắm đã  cho em hộp kẹo sữa. Kẹo ngon lắm. Hơn nữa, khi ăn hết, em lại có được cái hộp đẹp.
     Anh bỗng thấy một sự bực dọc bất ngờ với cô. Làm sao cô có thể dễ cảm động, dễ biết ơn với những việc tầm thường nhỏ mọn như thế? Tại sao cô không nâng mình lên một cuộc tranh đấu,  tiến lên nắm bắt những thứ mình muốn như những người khác. Lòng khiêm nhường, sự không mong đợi gì của cô làm cho anh muốn đấm cho cô một cú.
-    Đêm qua, Tôi có gặp  Galina chị cô. Cô ấy ở trên sân khấu tại Tân Thập Đế. Đó là một rạp hát trình diễn. Cô tự gọi mình là  nàng công chúa Cốt Sách.
     Bên  cạnh anh, Daisy May có vẻ ngập ngừng rung động. Anh xoay qua nhìn cô nhưng không thể nhìn rõ khuôn mặt trong bóng tối. Anh bắt đầu thấy tự hổ thẹn, sợ hãi cho sự ác độc của mình.
-   Xin lỗi Daisy. – Anh nói hơi cục cằn. – Có lẽ tôi không nên bảo cô điều đó. Có lẽ không nên nói gì mới phải.
     Daisy May không trả lời. Họ lê lết chân bên nhau trong im lặng.
-   Tôi không biết có bao giờ cô nghĩ về cô ấy không…
-   Có chứ!  -  Daisy nói một cách vô cảm. – Có, em có nghĩ về chị ấy, và cả những người khác nữa: về mẹ em, bố em và anh Ivan.
-   Cô ấy trình diễn một màn khá ngoạn mục. – Anh  dịu giọng. – Cô ấy nhảy múa và chơi vĩ cầm. Cô ấy thực sự rất khá.
-    En hy vọng đó là cây đàn của bố. Chị đã lấy nó đi, anh cũng biết.
-    Ừ! Tôi biết.
     Ở phía trước, anh  nghe tiếng Sophie chuyện trò với hai anh chàng trẻ. Bỗng nhiên anh mong Sophie quay trở lại đi cùng với anh. Sophie có lẽ sẽ biết xử trí ra sao với tình huống khó khăn hoàn toàn do chính anh gây ra này.
-     Chị ấy có nói gì không? Chị có hỏi gì về em không?
-     Tôi không nói chuyện với cô ấy. Chỉ nhìn thấy trên sân khấu thôi.
-    Em chưa bao giờ thực sự yêu thích chị, anh biết mà. Thật tệ bạc khi nói thế phải không? Nhưng thực tế  là vậy. Chị  cùng phe với bố, còn em…
-     Cô luôn luôn là đứa con ngoan của mẹ.
-    Dù sao chị vẫn là chị gái của em. Em không muốn chị trở lại đây, không bao giờ. Nhưng chị vẫn là người chị. Là những gì   em có được. Em ước gì anh  đã nói chuyện với chị.
-  Tôi…Lúc đó thật khó Daisy à! Tôi đi với bạn. Vả lại, cũng đã bao nhiêu năm rồi. Tôi lại nghĩ là cách nào đó không có hay lắm.
-   Không! Em cũng nghĩ là không hay. – Anh nghe cô thở dài, tiếng thở  dài thốt lên bâng khuâng  nghe như một phần của  làn gió nhẹ buổi tối. -  Nhưng em vẫn mong anh nói chuyện với chị. Có thể nào anh đi gặp chị ấy nữa không? Cho chị ấy biết em  bình yên và…và chị có thể viết thư cho em nếu chị muốn. Chị ấy biết viết mà. Em hy vọng bây giờ chị có thể khá hơn khi chị lên sân khấu. Chị phải đọc kịch bản  để trình diễn phải không?  Chị phải đọc chữ và học bài hát phải không?
-  Tôi không biết có thể tìm thấy cô ấy nữa không Daisy! Chương trình thay đổi vào mỗi thứ Hai và cô sẽ không ở Tân Thập Đế tuần tới.
     Dường như có một  lỗ hổng  của sự kích thích trong lòng anh giống như lần đầu tiên người tài xế cho anh bẻ lái quanh  xưởng xe lửa.
-   Nhưng anh vẫn có thể tìm thấy chị nếu anh đi dò hỏi phải không? – Cô quay lại đối diện , nhưng anh không thể nhìn rõ khuôn mặt từng chi tiết, chỉ một màu trắng nhạt nhoà. - Dù sao anh vẫn có thể gặp chị ấy nữa ở một hí viện khác. Anh đi coi nhiều lắm mà, phải không?
-     À! Đúng vậy, nhưng…
-   Ồ thế thì được mà ! Em sẽ không nói chuyện này với  người nhà anh. Chỉ làm họ bực mình thôi -  Cô nói ra vẻ hiểu đời và như ra lệnh, không giống Daisy May thường ngày. Đây là  một vai trò mới cho cô và cho anh, và anh không chắc mình có thích hay không.
-     Nếu anh tìm thấy chị ấy, nói với chị  là em có tin của Ivan.
-     Thật sao? – Edwin kinh ngạc hỏi.
-   Đúng! Anh  ấy viết gửi cho Sophie ba năm trước đây. Anh ấy đã không chắc em đang sống ở đâu..
-    Sophie không nói với tôi chuyện ấy.
     Anh thấy bị khinh thường quá xá. Đã từng là thần tượng của hai đứa con gái. Chúng không bao giờ làm việc gì mà không hỏi ý anh, và giờ coi nè, dám giữ chuyện bí mật với anh tới những ba năm.
-   Không! Cô ấy không nói để giữ lời hứa với em. Anh ấy viết lách quá tệ, chữ nghĩa sai lạc hết.Tuy em  không mắc cở về điều ấy, nhưng em mắc cở cho anh Ivan. Anh chẳng bao giờ có thời gian học viết cho đàng hoàng, và em không muốn  ai khác biết. Nếu em bảo rằng nhận được thư anh ấy, mọi người sẽ đòi đọc thư.
    Vâng, dĩ nhiên cả nhà sẽ đòi đọc thư. Daisy May được coi  như một người phụ thuộc vào gia đình trong nhiều năm, một mối liên hệ lỏng lẻo, một kẻ chỉ biết tuân lệnh, không giữ gì riêng cho tâm hồn mình. Đúng là mọi người trong nhà đối xử tử tế với cô, rất tử tế và coi cô là một người thân trong nhà. Nhưng cái giá cô phải trả là phải hội nhập hoàn toàn, không được quyền riêng tư, không có sự độc lập.
-    Anh ta nói cái gì? Tôi muốn  nói …là nếu như cô có thể cho tôi biết.
     Anh hỏi với giọng cứng cỏi, và có thể nghe từ giọng nói của cô để biết cô đang mỉm cười:
-    Chỉ là anh ấy bình an mạnh khoẻ. Đã  đăng vào quân đội, gia nhập  như một tên lính sữa. Anh ấy đã đi qua Ấn Độ. Anh bảo sẽ đến thăm em nếu em vẫn còn ở đây khi anh trở về. Thư của anh ấy có con tem  thật đẹp. Em có viết thư trả lời. Sophie cũng thế. Dĩ nhiên anh đã thay tên đổi họ. Không muốn cho ai biết về… về chuyện xảy ra ở đây…
-    Dĩ nhiên là không.
-  Thật đáng vui mừng khi biết anh ấy vẫn an bình và còn nhớ đến em. Em thấy mình như có lại gia đình.
-    Đúng thế!
-   Và mặc dù em không có cảm giác ấy với Galina, chị ấy vẫn là chị em. Em muốn biết chị ấy đang ở đâu. Và có bao giờ nghĩ đến chúng ta không?
-   Được rồi, tôi sẽ coi mình có thể làm được gì. Hy vọng có thể tìm ra cô ấy ở chỗ nào tuần tới. Để coi tôi sẽ làm được gì.
     Anh rời cô với tâm trạng hơi bị chấn động.  Ngồi trên  xe lửa đêm hôm đó, anh tiếp tục suy xét kỹ điều Daisy May nhờ vả anh. Anh không thể tin là có bất cứ gì về cô mà anh không biết.  Khi cô làm anh ngạc nhiên  như trong buổi tối nay, anh cảm thấy bất an. Nhưng ngay trong khi lòng thấy bất an, tâm trí anh lại nổi lên một niềm thích thú phát xuất tận đáy lòng. Anh tự hỏi làm sao để theo dấu Galina đây?
    
     Ngay  ở cửa hậu  sân khấu tại rạp hát Tân Thập Đế, anh bị cự tuyệt thẳng thừng. Người đàn ông gác cửa ném cho anh một cái nhìn cổ quái và nói:
-   Vậy hả? Muốn đeo đuổi một trong những nữ nghệ sĩ phải không? Này!  Tôi e là không biết tuần này cô ta trình diễn ở đâu. Và cho dù có biết  cũng không nói cho cái lũ mê đào hát chầu chực trước cửa này đâu nhé!
     Edwin đỏ bừng mặt, không phải vì bối rối mà vì tức giận. Một lời giải thích rằng anh  đi tìm nàng công chúa Cốt Sách  giúp cho người em gái của cô ta  mang lại một cái liếc đểu cáng của ông ta. Edwin bỏ đi trước khi anh nổi nóng quại cho hắn  một cú vì cái nhìn đểu .
     Đêm đó anh lại thử đến hỏi ở quầy bán vé và cả người quản lý đứng trước cửa vào. Thật mất công vô ích. Người đàn bà  tóc nhuộm  ngồi sau quầy bán vé không biết. Còn người quản lý  lẳng lặng  đuổi anh đi. Anh  mua đủ loại báo chí ở Luân Đôn và nghiên cứu kỹ lưỡng các tin tức về phần giải trí. Chẳng thấy Galina đâu mặc dù không có nghĩa là cô không có trong bất cứ nơi nào đang được quảng cáo.
     Tuần này, anh lên ca làm việc sớm. Vì thế, mỗi đêm, sau khi hết giờ làm việc, anh đều bắt xe điện hay xe buýt đi đến nhiều rạp hát khác nhau, kiểm tra các bích chương quảng cáo trước cửa và hỏi thăm người giữ cửa xem  cô đào Olga công chúa Cốt Sách có trình diễn trong tuần không? Đến ngày thứ Sáu, anh bắt đầu tuyệt vọng, biết rằng, thời gian càng kéo dài từ hôm nhìn thấy cô lần đầu, sự theo dấu cô càng khó khăn. Có thể  cô sẽ đi khắp nơi,  kể cả các miền quê. Nhu cầu tìm ra cô giờ trở nên một nỗi ám ảnh, một  ám ảnh của riêng anh chứ không còn liên quan gì đến yêu cầu của Daisy May.
     Sáng thứ Bảy, khi đang làm việc trên con đường đi tới  Charing Cross, câu trả lời đột nhiên đến trong trí: đó là  quán rượu ở cạnh Tân Thập Đế. Đủ loại các nghệ sĩ trình diễn đều đến đó trước và sau  mục trình diễn của họ. Người chủ quán hoặc cô chiêu đãi có thể  còn nhớ Galina, hay ít ra  nhớ một số nghệ sĩ khác đã đến trong tuần qua.  Anh chỉ cần tìm ra một người trong bọn họ, anh sẽ có thể có một ít tin tức về cô.
      Ngay khi giờ trình diễn tại hí viện bắt đầu, anh vào ngay quán gọi một chai rượu, và rồi truy vấn cô chiêu đãi. Olga nàng công chúa Cốt Sách chẳng là cái thớ gì để họ nhớ đến, nhưng người chiêu đãi hé môi rằng có nhiều nghệ sĩ đến đây làm một vài ly vào giờ nghỉ giải lao. Edwin tìm chỗ ngồi ổn định chờ đợi.
     Đối với anh, chuyện làm quen đột xuất với người lạ, trao đổi vài cảm tưởng với khách qua đường, hay người chỉ gặp gỡ trong khoảnh khắc khá dễ dàng, bởi dù không quan tâm lắm, anh thuộc loại  điển trai, dáng dấp ưa nhìn và có gương mặt vui tươi  truyền cảm, thân hình to lớn, tráng kiện với một làn da hơi rám nắng và mái tóc nâu dầy bóng bẩy, luôn luôn chải chuốt gọn gàng.  Cái thu hút nhất trong con người anh là đôi mắt. Chúng có màu xám và hầu như hoàn toàn trong sáng, nhất là khi anh cười, đôi mắt lung linh lấp lánh, đặc biệt đàn bà con gái  thấy anh thật hấp dẫn. Anh lại có một cử chỉ ấm áp và thân thiện và chẳng thấy phiền toái gì khi phải  nói chuyện với những người hoàn toàn xa lạ khi giờ giải lao đến.
    Đầu tiên có hai người bước vào. Sau đó là một nhóm ba người, hai đàn ông và một cô gái. Họ tiếp tục nói chuyện với nhau và anh không muốn xen vào, mặc dù người con gái có liếc nhìn  qua chỗ anh ngồi. Rồi cánh cửa lại mở ra và một người bước vào chỉ có một mình. Anh nhận  ra đó là một nghệ sĩ trình diễn trên sân khấu. Đó là Leonardo, người nghệ sị phác hoạ. Edwin đăm đăm nhìn ông cho đến khi người ấy nhìn lại. Anh mỉm cười gật đầu chào. Leonardo hơi gật đầu chào lại, và Edwin, không chút ngại ngùng, nắm lấy ly rượu và tiến về phía ông ta.
-    Leonardo, người nghệ sĩ phác hoạ trên sân khấu  đúng không ạ?
-    Đúng thế!
-    Đã coi ông trình diễn  mùa hè vừa qua ở Brixton Empress. Rất thu hút.
-    Cám ơn. – Ông ta làu bàu rồi gục đầu vào cốc  rượu.
-    Cho phép tôi  mua mời ông một  cốc nữa nhé?
-   Leonardo ngước mặt lên  khỏi cốc rượu. Trông ông có vẻ  thân tình hơn: - Cám ơn, rượu nặng nghe.
     Cái lịch sự  nhã nhặn đã được trao đổi. Edwin diễn tả sự ngưỡng mộ của anh và sau  khi được mời thêm một ly nữa, ông  đã tỏ ra vui vẻ và bắt đầu tự khoe mẽ. Nhớ tới sự cự tuyệt thẳng thừng  của người đàn ông giữ cửa sau sân khấu và viên quản lý rạp hát phía cửa trước, Edwin cẩn trọng điều anh muốn hỏi từng chữ. Anh nói:
-    Tôi mong là có cách nào  để biết được những chương trình mình ưa thích sẽ được trình diễn ở nơi nào đó.  Chẳng hạn như bây giờ, tôi phải chờ bao lâu  để có thể thấy ông trình diễn trên sân khấu lần nữa. Và rồi, như ở cái rạp Tân Thập Đế này trong tuần qua, có hai chương trình hết sức thú vị mà tôi muốn coi lại. Nhưng ai biết được bây giờ họ ở đâu?
-    Ồ vậy sao? Đó là chương trình gì vậy?
-     Trữ Liệu Người Mang Ký Ức và Olga Nàng Công Chúa Cốt Sách.
-   Thế ư! Tôi không chắc về màn Cốt Sách, nhưng Trữ Liệu thì có lẽ  ở trong vòng tua. Khi chúng tôi đến Luân Đôn, chúng tôi thường đi trình diễn theo tua  sắp xếp trình tự đều đặn. Trừ khi ở ngôi vị đầu bảng xếp hạng, thường thường sắp đặt theo tua dễ dàng hơn. Hầu hết, sau khi ở đây, chúng tôi sẽ rời qua Hilborn Empire, sau đó là Crouch End Hippodrome, rồi tới Oxdord và Met ở trên đường Edgware. Anh chắc là sẽ tìm ra Trữ Liệu ở một trong những nơi vừa kể trong  tuần này.
-   Cám ơn ông rất nhiều, thưa ông Leonardo. – Anh cố giấu cảm xúc mừng rỡ. – Có thể mời ông một ly nữa không ạ?
     Leonardo dùng tay  lau quệt qua hàm ria mép:
-    Thôi , cám ơn anh bạn trẻ. Giới hạn của tôi trước mỗi sô diễn là ba cốc. Uống hơn thế là mắt nhắm lại. Đối với người nghệ sĩ trình diễn, đôi mắt phải mở to. Không có điều ấy coi như tiêu.
-     Vậy thì xin chào tạm biệt!
-     Sao hả?
-     Giờ tôi phải đi. Rất hân hạnh được gặp ông.
     Anh bỏ lại ly rượu đang uống dở và bay ra khỏi quán.  Nếu anh tới kịp, anh có thể bắt đưọc  phần trình diễn kế ở Holborn Empire. Anh chạy nhanh đến trạm đón xe điện và cố nhảy lên được chiếc xe đã đang từ từ lăn bánh, Đi một lèo tới khu Con Voi và Lâu Đài rồi lại đổi xe.  Anh đang  đấu tranh trong một cảm giác tăng dần sự hứng thú. Sự săn đuổi  hầu như  ngày càng trở nên hữu hiệu.
     Khi đến được Holborne Empire, anh  đã mất gần trọn  phần đầu của đêm diễn. Nhưng khi tất tả bước lên cầu thang dẫn vào rạp, anh bỗng nghe một âm thanh làm anh dừng lại. bàn tay căng ra trên cái lan can. Đó là âm nhạc điệu nhảy Cốt Sách của Galina. Anh nhắm mắt lại trong một thoáng giây và nuốt nước miếng một cách khó khăn. Đoạn anh quay lại, từ từ đi xuống cầu thang. Anh phải bắt kịp Galina trước khi cô rời hí viện. Không để ý tới cái nhìn lạ lùng tọc mạch của người soát vé, anh bước ra ngoài và tìm đường đi vào hậu trường sân khấu.  Mở cửa bước vào, anh thấy một người mập mạp đang ngồi ăn bánh  nhân đậu và thịt ba tê gói trong giấy.
-    Chuyện gì?
-    Tôi muốn gặp Gali…Olga  nàng Công Chúa Cốt Sách.
-     Được. – Anh ta nói với sự ngạc nhiên. – Ai  muốn gặp đây?
-   Tôi là… Xin báo cho cô ấy, Edwin Willoughby, có tin về Ivan, em trai của cô.
-     Được rồi. – anh ta gọi lớn. – Bertie…
     Một thằng bé xuất hiện từ dưới  một dãy bậc cấp.
-   Bertie, báo cho người trình diễn màn Cốt Sách biết có anh chàng muốn gặp với tin tức của em trai cô ta. Bảo tên anh ta là Willoughby.
-     Edwin Willoughby, và tên em trai cô là Ivan.
-    Nói như tao bảo, Bertie. Đi ngay đi.
     Edwin đứng chờ. Người đàn ông tiếp tục nhai và một tay lần giở từng trang của một tờ báo.
-    Được rồi. Anh có thể vào.
    Bỗng nhiên mọi sự trở nên dễ dàng. Bây giờ , anh ngưng lại suy nghĩ, vấn đề là nên nói gì? Cô ta trông ra sao nhỉ?  Cô có nhận ra mình không? Trong đầu anh đang diễn lại những  ký ức mờ ảo: Galina  ở buổi ăn mừng lễ Đăng Quang với mái tóc buông lơi và đám hoa dại cài ngang thắt lưng, Galina nhảy múa quanh đống lửa, Galina trong trang phục người hầu gái, Galina trông đoan trang, sạch sẽ và vô cùng thu hút.
     Thằng bé Bertie gõ nhẹ lên cửa.
-   Mời vào. - Một giọng nói êm ái,  dịu dàng nhỏ nhẹ. Anh mở cửa bước vào.
 Đó là một căn phòng dơ dáy tồi tàn, nhưng anh không chú ý. Mọi sự trông thật lôi cuốn với anh. Bộ trang phục trình diễn trắng vàng của  cô bung lên trước tấm gương cùng với ánh lửa bập bùng ở phía bên kia. Galina đứng dậy đưa tay ra về phía anh và mỉm cười, cái nụ cười Barshinskey ấm áp, rạng rỡ và tuyệt vời mà  đã nhiều năm anh không nhìn thấy.
-     Edwin!
     Anh không thể mở lời, cảm thấy mình vô dụng y như anh đã từng như thế những năm tháng cũ. Đúng là, ngày xưa anh đã cố tỏ ra cao ngạo với cô vì cô là con của kẻ bần hàn , còn anh thuộc con  nhà danh giá. Nhưng anh vẫn thấy mình là đồ vô dụng, một thứ bị gạo ở tuổi mười ba. Giờ này, cô không còn  trông như con nhà bần hàn nữa. Mắt cô lấp lánh như sao và  mái tóc  quăn dầy cộm của cô  buông xõa xuống bờ vai phủ đến  ngang lưng.
-    Edwin! – Cô nói và chăm chú nhìn anh, - Thật là  không thể nhận ra anh. Anh thay đổi nhiều quá. Lớn quá chừng. Ai có thể ngờ anh lớn lên mau thế?
-    Đúng thế! – Anh nói một cách ngây ngô và  cười nhạo mình để che giấu sự bối rối trong tim. Cô băng qua phòng nắm lấy tay anh, kiễng chân lên đặt một nụ hôn nhẹ nhàng lên má anh. Có  gì đó chợt bùng nổ lên trong anh. Sự thân mật. sự nhỏ nhoi và mùi vị của cô, mùi  nước hoa, mùi phấn , cả mùi mồ hôi làm anh gần như mất bình tĩnh. Anh nắm chặt tay cô. Chúng bé nhỏ, gầy guộc trong tay anh.
-   Tôi nhớ là cô cao lớn mà! Phải, cao lớn . Nhưng giờ cô lại nhỏ nhắn. Dường như từ khi ra đi cô không lớn thêm chút nào?
-    Nhưng giờ thì ăn mặc tươm tất hơn, có đúng không?
-    Làm sao cô…? Ý tôi muốn hỏi chuyện gì xảy ra? Sau khi cô bỏ đi, từ đó đến nay  như thế nào? Tất cả những thứ này? – Anh  vung tay chỉ mọi thứ quanh phòng. Galina nhún vai và ngồi xuống trước bàn phấn.
-   Tôi không muốn nói đến quá khứ. Đối với chúng tôi, con cái nhà Barshinskeys, điều này chẳng tốt lành gì. Bây giờ thì tốt hơn, tốt hơn nhiều.
     Edwin lúng túng nên đành im lặng.
-  Ông ta không tốt, cái ông Jones đó. Lúc đầu tôi thích ông ấy. Nhưng rồi, anh biết không, tôi sợ hãi trong suốt cái đêm khủng khiếp đó, với anh chàng trẻ đáng thương có mụn đầy mặt ấy.
       chợt rùng mình, rồi cô lấy dầu bóng bôi lên mặt. Edwin nhìn một cách thích thú. Anh có hai người chị em gái, nhưng chưa thấy ai buông thả và thân mật như thế. Cô ta  dường như chẳng lo lắng đến chuyện anh đang nhìn cô.
-   Tôi không thích nhìn thấy những thứ xấu xí, chết chóc và bệnh tật…dễ sợ lắm…
-     Nếu cô không thích thì đừng nói tới…
-    Không có gì nhiều để nói, Edwin thân mến! Ông Jones, ông ta trở nên quá nghiêm trang, tối ngày cứ đòi cứu lấy linh hồn tôi và cầu nguyện cho tôi. Thật còn tệ hơn là ở nhà xứ nữa, nên tôi bỏ đi.
-     Rồi sao nữa? -  Cô lại nhún vai:
-    Tôi làm việc này một chút, việc kia một chút. Đi làm quản gia một thời gian. -   Cô liếc qua nhìn anh dưới đôi mi giả và nói  ra vẻ nghịch ngợm: - Ông ta là một lão già…
-    Và rồi sao…?
     Anh muốn biết thêm. Anh nhận ra  điều mà cô đang nói, về  cuộc sống mà cô đang sống. Nhưng lạ lùng là anh không cảm thấy ghen tuông. Chỉ là muốn biết.
-    Rồi tôi gặp một người dạy tôi học nhảy, nhảy đúng bài bản, anh hiểu chứ? Ông ta là người quản lý của tôi một thời gian. Giờ tôi không cần ông nữa.
     Cô đã lau sạch hết chất dầu bôi trên mặt, trông cô trẻ trung hơn và cách nào đó có vẻ mảnh mai hơn. Rồi cô chậm rãi  bôi mỹ phẩm, kem, phấn hồng lên mặt và chăm chú kẻ mắt.
-    Bây giờ tới phiên anh kể cho tôi nghe mọi chuyện ở nhà anh. Ivan, anh có tin tức của thằng Ivan?
-   À há! Không hẳn là tin từ Ivan. Daisy May có tin của anh ta mấy năm trước đây. Anh ta đã vào quân đội và đang ở Ấn Độ.
-     Daisy? Anh vẫn còn gặp Daisy à?
-   Cô ấy vẫn ở lại trong làng từ ấy đến nay. Đang làm việc ở nhà Fawcett.
-    Ôi con bé Daisy đáng thương! Anh về nói với con bé là chị Galina gửi về nó lòng yêu dấu sâu đậm nhất của chị. Nhớ cho kỹ nghen! Niềm yêu dấu sâu đậm nhất.
     Có tiếng gõ cửa bên ngoài và cô nghiêng mặt qua tấm gương kiểm soát phần trang điểm lần cuối. Với đôi gò má cao và cái cằm hơi nhọn, trông cô mang đầy tính chất tinh quái, mà dễ đổ vỡ.
-   Mời vào. – Cô nói lớn và quay ra cửa nở một nụ cười. – Heikki! Ô, Heikki yêu quý!
     Ông ta là một người nhỏ con, thấp bé và tròn trịa với cái đầu sói và bộ râu cá chốt. Ông mặc một bộ đồ lớn sậm màu,  trông ra vẻ đồ dạ hội nhưng không phải. Ông ta nhảy xổ lại Galina như một quả banh nhựa và hôn lên hai bên má cô.
-   Heikki  yêu quý! Coi nè, đây là một người bạn cũ, người biết em từ hồi em còn là con nít. Anh ta đến từ chỗ em trai của em.  Anh ấy biết em, từ cái thời khi em không có giày để đi, xấu xí  và bẩn thỉu.
     Cô bật cười, cái cười ngon lành như muốn chỉ ra rằng đời sống thật tuyệt vời vì cô đã không còn nghèo khổ bẩn thỉu nữa.
-   Ồ, không phải thế, Galina à! – Edwin bắt đầu  lắp bắp. -  Cô có bao giờ như thế đâu. Cô thì lúc nào cũng …khác thường…thú vị…ngay cả khi chân cô không  giày.
     Người đàn ông thấp bé cười rạng rỡ với Edwin. Ông ta dường như không chú ý tới việc anh có mặt trong phòng Galina.
-    Vậy à! – Ông ngạc nhiên nói. -  Và tại sao anh chàng trẻ này gọi em là Galina?  Còn ai là Olga?
     Galina quay qua nhìn Edwin và tiếp tục cười:
-   Anh phải biết, Edwin ạ!  rằng ông Heikki gặp tôi khi tôi có mặt ở Tivoli, đúng vậy, con nhỏ Galina tồi tàn này của anh xuất hiện ở Tivoli. Heikki chỉ biết tôi  với cái tên Olga, không phải Galina. – Cô nhún vai. - Chẳng thành vấn đề, Galina hay Olga, có gì khác đâu.
    Người đàn ông nhỏ bé ào tới cạnh Edwin chìa tay ra:
-     Rất vui được gặp anh. – Ông nói với giọng vui vẻ và nhìn chăm chú lên khuôn mặt anh. -  Một anh bạn trẻ đúng mẫu người Anh. - ông gật gù. -  Dân Anh chính cống.
-   Heikki đến từ Phần Lan, Phần Lan thuộc Nga. – Galina  vừa nói vừa quay lại tấm gương. – Anh Edwin à! Hãy nghĩ coi. Ông ấy có một căn nhà ở Mạc Tư Khoa, một căn hộ ở St Peterburg và một cái nữa ở Phần Lan. Sẽ có một ngày, một ngày rất gần, ông sẽ đưa tôi về  St Peterburg trên một trong những con tàu của ông.
-   Tôi là một nhà buôn. - Người đàn ông vui vẻ nói.-  Gỗ ván và vải sợi. – Ông hơi cúi mình một cách lịch thiệp . – Heikki Rautenberg.
     Ông nói  tiếng Anh rất khá và mặc dù hơi mập và tức cười, đối với Edwin, ông đã có một dáng điệu  lôi cuốn, một sức thu hút mà gia đình Barshinskeys từng có trong những ngày tháng cũ. Ông ta là người Nga, với một âm điệu Nga và rõ ràng ông đang làm chủ Galina. Edwin chờ đợi một nỗi đau khổ của sự ghen tuông cũ nổi lên trong con người anh, nhưng điều này không xảy ra. Cô ta  thật  rạng rỡ, thật đẹp và bỏ xa anh như một sinh vật thần tiên “chỉ có thể  ngắm mà không thể nắm”. Rõ ràng, cô phải thuộc về ai đó cũng khác lạ, đến từ một thế giới xa xôi, thật giàu có, kỳ kạ và đầy màu sắc.
-   Edwin Willoughby. – Anh tự giới thiệu với vẻ hơi xấu hổ, và ông  Rautenberg đưa đẩy hai tay lên xuống  trong một cử chỉ rất hứng thú.
-   Và bây giờ,– Ông ta khoanh tay trước ngực. – bây giờ, Olga yêu quí! Người bạn của em phải đi ăn tối với chúng mình. Không đâu, anh nhất định thế. Bạn bè cũ đâu có gặp gỡ mỗi đêm trong đời? Chúng ta phải ăn mừng chứ. Một dạ tiệc, chịu không?
-    Ông thật là tử tế. – Edwin lắp bắp. – Nhưng thực sự là tôi…
-    Tốt rồi!  Vậy thì chúng ta đi nào. Olga! Em đã sẵn sàng chưa?
     Ông đi tới cái móc áo trên tường lấy xuống chiếc áo khoác bằng da hải cẩu mang choàng lên người Galina. Cô nàng cột mái tóc lên cao. Để bới tóc lên cao, mấy chị em gái của anh phải mất hằng giờ. Lúc này, anh chưa hề thấy ai làm được nhanh chóng như Galina. Bây giờ, trong chiếc áo choàng màu bạc lấp lánh mịn màng, trông cô thật sang trọng và xa vời.
-   Tôi thực sự không ăn mặc đúng mốt để đi dự dạ tiệc. – Anh ngần ngại từ chối một cách yếu ớt. Trong thâm tâm, anh muốn đi với họ kinh khủng. Họ phấn khởi quá, khác lạ quá.
-  Không thành vấn đề. – Ông Rautenberg nói như ra lệnh, tay ông quơ lên trên không. – Anh bạn trẻ, anh đi ra gọi một chiếc tắc xi đi. Chúng tôi sẽ theo sau, chỉ vài giây thôi.
     Anh chạy nhanh  xuống những bậc thang đi ra cửa. Trong đầu anh lúc này  đang nghĩ đến Bassy và những người bạn ở chỗ làm việc có lẽ không bao giờ tin những gì đang xảy ra nơi đây,  và rồi một lần nữa, anh lại nhận ra rằng anh sẽ không bao giờ nói cho bất cứ người nào biết về bước chân của anh đi vào thế giới mới chói loà này . Họ sẽ không thể hiểu được và dù sao anh cũng không chia sẻ với bất cứ ai. Có lẽ chỉ có thể kể cho Sophie. Con bé có lẽ sẽ hiểu cái thế giới mới ấy có ý nghĩa thế nào đối với anh: gặp gỡ những người ở giai cấp khác trong cuộc sống.
     Họ đi đến một nhà hàng tại khu Long Acre. Phía trong được bao phủ toàn một màu nhung đỏ sang trọng  với những kệ tủ trên tường. Ông Rautenberg đi vào trước. Ông nói nhỏ vào tai một anh bồi bàn. Edwin thấy được món tiền boa hậu hĩ của ông và họ được dẫn đến một cái bàn ở trong một góc tường nhà.
-     Bởi vì chúng ta ăn mặc không đúng điệu lắm, anh bạn hiểu chứ?
    Edwin đảo mắt nhìn chung quanh, anh thấy quả thực mọi người khác đều mặc  dạ phục tươm tất. Anh bắt đầu lo lắng chuyện tiền nong. Anh có nên  đòi bao hết? Và nếu vậy, liệu anh có mang theo đủ tiền để trả không? Sự lo lắng vây bủa anh, càng lo lắng hơn khi nghe ông Rautenberg gọi một thứ gì nghe rất đáng nghi ngại như là “châm băng?” (sâm banh)
-   Có lẽ tôi nên …a…muốn…a… đóng góp vào buổi tối nay… -  Anh lắp bắp   một cách ngượng ngùng và  nhột nhạt.
-     Tối nay là dạ tiệc của tôi. – Ông Rautenberg nói thật thoải mái. - Tối nay anh bạn là khách mời . Đó là chuyện tốt đẹp cho Olga, Ồ không, hôm nay phải gọi Galina mới đúng. Tốt cho Galina  có một người bạn  cũ trẻ trung. Em lúc nào cũng đi với tôi một ông già, thật già, và tôi nghĩ đôi khi em cũng phải mệt mỏi với một lão già.
    Ông  nói với một giọng điệu tự tin và sôi nổi rõ ràng rằng đó chỉ là câu đùa cợt cho vui chứ ông không một phút giây tin đó là sự thật.. Galina đưa mắt nhìn ông thật tình tứ ấm áp và nói:
-    Ồ, không đâu, Heikki.
    Cô đưa bàn tay nhỏ nhắn nắm lấy tay ông. Dù vậy, Edwin cũng không cảm thấy chút tỵ hiềm nào.. Họ là những sinh vật khác thường, kỳ quái, và anh biết ơn họ vì họ đã đưa anh vào cuộc sống của họ.
     Nhiều lần trong đêm, tâm trí anh đã phải ngưng lại để suy nghĩ:  Coi này, hãy  giữ lấy nó, bởi chẳng khi nào có chuyện như vầy xảy đến cho ta một lần nữa.  Ta đây, Edwin Willoughby, ngồi uống sâm banh với những tay đại gia, những vị phu nhân như là một người trong họ.
     Anh đủ khôn ngoan và hiểu đời để biết rằng sâm banh, trứng cá caviar, thứ mà ông Rautenberg đã gọi dọn lên khi ông được biết Edwin chưa từng được nếm mùi vị trong đời, và cả những anh bồi với thái độ cung kính, thực ra cũng chỉ là một  bản sao đắt đỏ hơn của một buổi tối bình dân tại tiệm  Quán Trọ Thành Phố với món khai vị thập cẩm  đi kèm theo món chính là bò bíp tết cho một bữa ăn tối. Một đêm đi ăn chơi  ở đâu cũng vẫn là một đêm đi ăn chơi, và người ngồi trong nhà hàng trang trí bằng nhung lụa  thì chi nhiều tiền hơn thế thôi. Nhưng dù sao, anh cũng  đã là một phần của bọn họ, một phần của thế giới trước đây chưa từng thấy, và đang cùng ở với hai người có lẽ chẳng bao giờ có thể gặp ở Quán Trọ Thành Phố.
     Anh tiếp tục nghĩ đến Sophie. Không biết cô bé sẽ  thưởng thức nó ra sao? Nhất là cô bé sẽ thích thú với ông Rautenberg này, một người vừa là dân Nga, vừa là dân Phần Lan như thế nào nhỉ?
      Trong các câu chuyện của ông đầy rẫy những tên đại khái như St Peterburg, Mạc Tư Khoa, Riga… Rượu sâm banh, rồi sau đó là rượu vang đắt tiền làm tan biến sự mắc cở, anh thích thú lắng nghe những câu chuyện về hành trình của ông Rautenberg và sự nghiệp trình diễn ca múa của Galina.   Anh bắt đầu có những câu hỏi, quên đi sự hổ thẹn vì thiếu tinh tế. Anh ăn ,uống, thưởng thức những hương vị mới, cảm giác mới và thưởng thức luôn cả Galina và ông Rautenberg. Anh lắng nghe và ghi nhận. Nghiệm ra rằng  giọng nói của Galina đã   khác những ngày xưa cũ, không phải thay đổi âm độ và cao độ mà ở giọng điệu. Khi còn nhỏ , giọng nói cô pha trộn giữa âm giọng  xứ Kent và giọng lơ lớ  của bố cô, nhưng bây giờ mỗi một chữ cô nói được phát âm rõ ràng cẩn trọng. Thực ra, đôi khi cô nói như là của  một người ngoại quốc  không muốn ai biết đến nguồn gốc phát âm của mình.. Và đôi mắt cô, khi còn nhỏ, anh đã so sánh chúng với đôi mắt mèo. Nó vẫn còn xếch lên, nhưng bây giờ  cái xếch mang đầy vẻ bí mật, mời gọi và láo liên. Có mấy lần anh bắt gặp cô nhìn anh, cái nhìn chăm chú  có dấu băn khoăn mơ màng . Khi cô nhìn ông Rautenberg, lại là một cái nhìn khác. Rồi cô cười lớn, đôi mắt xếp lại như hai vầng trăng lưỡi liềm lấp lánh.
-   Tôi không tin  được. – Anh nói với cô thật nồng ấm. – Không thể nào tin được là đã gặp lại  Galina ngày trước. Cô thật khác, đồng thời cũng  hệt như xưa. Và giờ thì cô đã khá giả, xinh đẹp và thành công. Không thể nào tin được.
     Galina cười, nghiêng  đầu với một cử chỉ hiểu biết khả ái;
-   Và tôi cũng không thể tin được, anh Edwin ạ! Hồi đó anh lúc nào cũng nghiêm nghị, bất mãn, luôn luôn nhìn tôi bực bội chẳng bao giờ cười. Anh luôn luôn quá… quá đạo đức, cả   dòng Willoughbys nhà anh. Lúc nào cũng nghĩ  mình sống đúng đắn. Anh không bao giờ hiểu được cha tôi và tôi.
-   Ồ, Có hiểu chứ! Sophie và tôi, hai đứa tôi  nghĩ  bọn cô  rất tuyệt vời, nhưng cô  làm chúng tôi buồn phiền. Tất cả những thứ chúng tôi được dạy là việc quan trọng thì cô  lại chẳng coi ra  cái quái gì. Tôi nghĩ cô đã làm chúng tôi e sợ. Lúc ấy cô thật là…tôi cho là…thật là…điển hình  Nga….
     Thình lình ông Heikki cắt lời, đổ thêm rượu vào ly, vỗ vai Edwin và nắm tay Galina. Trong phút chốc họ quên mất sự hiện diện của ông.
-   Tôi cũng vậy. – Ông hăm hở nói. -  Lần đầu tiên thấy cô ấy trên sân khấu nhà hát Tivoli, thật xinh đẹp, tôi biết ngay cô là người Nga. Không phải vì cái danh xưng Công Chúa Cốt Sách, cái tên chẳng hay ho tí nào, nhưng bởi vì cái lối cô chơi đàn ,nhảy múa, và cả cách nhìn của cô. Tôi tự nhủ ngay: Heikki, đây là một cô gái Nga. Mi phải đi gặp cô ta để khám phá ra cô gái Nga này đang làm gì trên sân khấu Tivoli ở nước Anh này. Đó là…bao lâu rồi nhỉ?  Từ hai năm trước. Và từ khi ấy, mỗi khi đến Luân Đôn là tôi phải đến gặp cô gái Nga nói tiếng Anh của tôi. Có một lần cô đã đến Edinburgh với tôi để thăm viếng đoàn tàu của tôi, và có lẽ có một ngày nào đó, tôi sẽ đưa cô đến St Peterburg trong một chuyến du lịch nhỏ để thăm viếng quê hương của ông bố cô….
-  Tôi lúc nào cũng muốn đi qua Nga một chuyến anh Edwin à!. – Galina mơ màng nói. - Suốt bao năm tháng papa tôi thường kể về nơi ấy, lúc nào cũng hứa sẽ đưa tôi về. Ông thường bảo là ở bên Nga, tôi sẽ là một tiểu thư ngồi trên chiếc xe ngưạ kéo với áo lông thú và trang sức lộng lẫy trên người.
-   Điều đó là thật, Galina! Trang sức, áo lông thú  em đã có rồi. Đâu cần phải đến St Peterburg mới có áo đắt tiền và trang sức lộng lẫy?
     Lần đầu tiên, giọng nói của ông Rautenberg mất đi vẻ hiền lành nhân hậu. Đó không phải là lời khiển trách, mà là một  xác định thực tế, dường như  để nhắc nhở cô một  vài điều. Galina tức thì đáp lại:
-   A! Heikki yêu quí! Ông rất rộng rãi với em mà, anh Edwin à! Anh thấy đó, - Cô đưa tay lên cổ và lên đầu, - Những trâm cài, vòng cổ này toàn từ vùng biển Ban Tích. Đó là loại ngọc hổ phách của Nga rất đẹp.
-   Quả vậy! – Edwin nói một cách gượng gạo và rồi Galina nói một điều gì đó bằng tiếng Nga, anh đoán vậy, và hai người họ bật cười.
     Ngay tức khắc anh thấy mình là kẻ ngoài cuộc. Đảo mắt quanh nhà hàng, anh càng nhận ra mình đang ở sai chỗ với những người không thích hợp. Anh không có quyền ở nơi đây. Anh ăn mặc xấu xí. Theo quan điểm thông thường, nó là bộ đồ “nhà quê” so sánh với những người đang ở chung quanh, nó không hợp thời ở đây, lại còn sai màu nữa. Anh trông cũng không hợp, ăn nói cũng không hợp, không có chỗ cho anh nơi này.
-    Bây giờ, đến lưọt anh, Edwin. Anh nói cho chúng tôi biết anh đang làm gì? Từ đâu đến thì tôi biết rồi, cùng nơi chốn với Galina, nhưng cuộc sống trong ngày của anh ra sao?
-    Tôi làm việc cho sở hoả xa. Tôi là người đốt than. Công việc là đi  chung với người tài xế xe lửa để đốt lò, cho máy chạy.Về lâu về dài, sẽ trở thành người lái xe lửa.
-    Như thế không tuyệt vời sao? -  Ông Rautenberg nói một cách rất là vui thích, không còn ý trách cứ bất ngờ nữa. -  Thật là lãng mạn.  Điều khiển một cỗ máy vĩ đại cũng giống như lái một con tàu to lớn. Mấy con tàu của tôi cũng thế, cũng có người lái và những phòng đốt lò cùng mọi thứ. Chúng chạy bằng hơi nước, như thế cũng như máy than của anh. Quá lãng mạn, có phải thế không Galina?
     Cô ta cười khúc khích, nhưng lần này tiếng cười của cô không làm anh khó chịu. Anh cũng muốn cười lên ,nhưng e là quá thô lỗ với ông Rautenberg, người cư xử quá dễ thương. Và đằng sau những thận trọng của anh cũng như việc không thích những cảm xúc quá lố , anh cũng thấy điều ông ta nói là đúng. Máy móc cũng lãng mạn và điều khiển nó cũng lãng mạn lắm chứ. Bất cứ ai  đứng dưới chân một cỗ máy to lớn, nhìn những pít tông từ từ quay không phải thi vị lắm sao?  Chỉ hai con người kéo đi hàng ngàn tấn sắt thép và hàng hoá phía sau không lãng mạn sao, nhất là khi chính mình là một trong hai người?
-   Chúng ta sẽ làm điều này nữa. – Ông Rautenberg hài lòng nói. - Thật vui khi có buổi tiệc này và chúng ta sẽ tính có tiếp. Tuần tới, anh sẽ ngồi với tôi, tôi có chỗ riêng ở rạp, thoải mái hơn anh biết chứ. Sau đó mình sẽ có bữa ăn tối khác.
-     Một lần nữa, Edwin lại tỏ ra bối rối.
-   Ông thật quá tử tế, thưa ông Rautenberg, nhưng tôi không nghĩ là... ông cũng biết…
     Làm sao để giải thích cho ông ta hiểu anh không có khả năng giải trí theo phương cách của ông và anh không thể nhận thêm sự khoản đãi của ông.
-    Ông coi  đó. Tôi và ông, chúng ta không thuộc cùng một tầng lớp xã hội. Nếu ông sống ở đây, có lẽ ông sẽ hiểu. Ông có bạn bè  cùng tầng lớp với ông và tôi có bạn của tôi.
-    Điều đó vô lý!  Hai ta đều là bạn của Galina. Và anh và Galina  thuở nhỏ đã  từng lớn lên cùng nhau.
-  Với Galina thì khác. – Anh bướng bỉnh nói. Nhưng Galina đã nhẹ nhàng đặt mấy ngón tay  lên che miệng anh.
-   Làm ơn đi, anh Edwin. – Cô nhẹ nhàng nói. Và khi quay lại nhìn gương mặt cô, anh giật mình vì thấy đó là một cái nhìn van nài, một lời mời gọi khẩn thiết. Mắt cô mở to và rất trang trọng. -  Đừng cứng đầu thế! Anh ra vẻ bực bội và ngột ngạt quá đấy! Tôi đã nghĩ  là anh không còn như thế nữa cơ mà. Anh phải đến, Heikki và tôi muốn có mặt anh phải không Heikki?
-   Tôi có ý kiến này. Tuần tới, Galina , chúng ta sẽ về chỗ ở của em sau buổi trình diễn. Còn hai đứa tôi sẽ mang  đồ tới mở tiệc.
    Cô vỗ tay như một đứa trẻ.
-   Ô! Ý kiến thật hay. Một bữa tiệc bất ngờ. Vậy thì em sẽ nhờ bà Keith nấu  bữa ăn tối cho chúng ta , và mình sẽ mời thêm ai đó, một người ở rạp hát.
-    Tốt, cứ như vậy nghen! _ Nói rồi ông gọi người hầu bàn tính tiền
     Ngay tức khắc, một loạt câu hỏi bay vào đầu Edwin. Anh nên mang gì tới? Bao nhiêu tiền anh có thể tiêu? Nên mua rượu  vang hay đồ ăn hay cả hai thứ? Hay là sâm banh?  Hay là từ chối? Nhưng từ chối làm sao  khi ông Rautenberg thật dễ thương và hiểu biết, còn Galina với đôi mắt thành khẩn van nài như muốn khóc?
-     Tuyệt diệu!  Anh nói như nuốt lời. - Tuần tới cô trình diễn ở đâu?
-   Tuần tới ở rạp Đô Thị. Nhưng ước gì anh gặp được tôi ở Tivoli. Tôi sẽ đến đó, họ đã bảo tôi nên trở lại đó nữa.
      Mắt cô ánh lên và mặc dù người ta có cảm tưởng là chúng đen tuyền, Edwin lại nhận ra  chúng thật sự có màu nâu vàng giống như thứ ngọc hổ phách cô đeo trên cổ trên tóc.
-     Tắc xi. Đi gọi tắc xi đi. – Ông Rautenberg vui vẻ nói và Edwin vội vã chạy ra ngoài theo lời ông.
     Khi chiếc tắc xi tới, anh không nỡ lòng rời bỏ họ, còn họ  nằng nặc bảo anh đi chung xe. Trên đường về Bayswater nơi trú ngụ của Galina, ông Rautenberg cười nói huyên thuyên. Một lần nữa, buổi tối tràn đầy chất lượng kỳ tích, mê ảo, tiếng vó ngựa  trên những con đường vắng, đêm tháng Giêng ròn rã, tiếng cười oà sảng khoái và trên hết, hào quang của Galina toả sáng suốt hành trình. Khi tới chỗ ở của  Galina, cô tạm biệt anh  với một nụ hôn trên má, và với sự kinh ngạc của anh, cả ông Rautenberg cũng hôn anh. Họ bảo anh  theo tắc xi về, nhưng vừa qua khỏi góc đường, anh xuống xe trả tiền trong tiếng làu bàu bất mãn của người tài xế và bắt đầu cuốc bộ về nơi trú ngụ. Con đường khá dài, nhưng anh còn trẻ trung, mạnh khoẻ và đang  ngập tràn thương yêu với Galina và ông Rautenberg, cùng với thành phố Luân Đôn và cả cuộc sống của anh. Thành phố thật tĩnh mịch trong một đêm tháng Giêng giờ đã thuộc về anh.
     Vừa khi mới thiu thiu ngủ trong cái lâng lâng sảng khoái của rượu sâm banh và những hồi tưởng  kỳ thú, anh bỗng giật mình với một ý tưởng không vui. Tại sao cô ta không hề hỏi thăm chuyện gì xảy ra cho mẹ cô?  Sao cô cũng không hỏi về ông bố, người mà dường như cô yêu thương rất nhiều?
     Đáng lẽ anh phải cho cô ấy biết, phải kể cho cô toàn thể  cái khoảng thời gian đáng sợ  kể từ sau khi cô bỏ trốn ấy. Nhưng làm sao để kể khi  trông cô quá sung sướng? Vậy thì, có lẽ cô ấy đã biết. Phải, chắc chắn là thế. Do đó cô đã không hỏi, Vì cô đã biết hết.

                                              (Xem tiếp chương 11)

No comments: