Chương 11
Bất hạnh, trái ngang
Mất một
quãng thời gian trước khi bà Fawcett mới nhận ra là, quả thực bà không ưa con
nhỏ Daisy May chút nào.
Có lúc
bà đã thấy mình khá nhân hậu với cô. Khi
ấy, con bé là một đứa trẻ mồ côi, một đứa con trong một gia đình có cha mẹ tệ bạc, không có ai đoái hoài đến,
ngoại trừ bà Willoughby, người thực ra cũng không quen biết cô bé lâu hơn bất cứ
ai trong làng, và chính bà Fawcett là
người đã hành xử như một tín hữu ngoan đạo. Chính bà đã cung cấp cho con bé có
nơi ăn chốn ở, và một tương lai.
Khoảng
một hay hai năm đầu, ít khi bà gặp cô bé. Khi bước chân đến Nhà Trắng, Daisy
May được cho một chỗ ở trong một gác xếp nhỏ ngay sát dưới mái và được giao phó
cho bà Bramble, người đầu bếp trong nhà cai quản. Cô bé được dạy phải giữ phòng ngủ cho ngăn nắp, thân thể, áo quần sạch sẽ và phải phụ giúp bà
Bramble trong việc bếp núc sau giờ học. Bà Fawcettt có cung cấp cho cô
một bộ đồ nỉ cho mùa đông và một bộ đồ vải cho mùa hè. Hai áo khoác đến trường được cấp phát từ thùng
đồ từ thiện của nhà xứ cùng với giày vớ và quần áo lót. Về quần áo mặc đi tham
dự lễ ngày Chúa Nhật, bà Willoughby đã
cho cô. Như vậy đã tiết kiệm được khoản
này.
Daisy
May tỏ ra trầm lặng và ngoan ngoãn. Bà đầu
bếp không có gì phiền trách cả. Cô là một
cô gái nhỏ nhưng làm việc rất siêng năng. Nói chung, bà Fawcett ít khi nào nhìn
thấy cô, bởi cô luôn lặng lẽ lên xuống giữa cái mái nhà và nhà bếp
với cử động nhút nhát như chuột. Bà Fawcett đã từng nghiệm ra rằng những người có tính nhút nhát như thế thường đi đôi với các cư
xử tốt đẹp mà không đòi hỏi nhiều tiện ích
riêng cho cá nhân họ.
Vào một
thời điểm nào đó, bà không chắc lắm, Daisy May đã hoàn toàn vĩnh biệt nhà trường
và bà gặp cô khá thường xuyên hơn. Bà có
thấy cô mỗi buổi sáng ở nhà bếp khi bà đi
vào trao đổi ý kiến với bà bếp về các bữa
ăn trong ngày.
Lần đầu
tiên sự có mặt của con bé thực sự đập vào mắt bà Fawcett khi bà đầu bếp để dầu mỡ sôi trào xuống lò và Daisy May đang quỳ dưới sàn, tay áo xắn lên để lau chùi bên trong bếp lò. Bà Fawcett đang dặn dò bà đầu bếp nên làm gì với
phần sườn trừu còn dư lại. Bà mơ hồ chú ý
thấy sao con bé này làm công việc dơ dáy thế mà áo quần nó vẫn sạch bong. Đầu tóc cô bóng bẩy. Làn da trắng
hồng mịn màng càng tươi mát hơn dưới cử chỉ điềm tĩnh trên nét mặt của cô, điều
ít khi thấy ở một ngươì còn trẻ trung như thế. Quần áo và tạp dề trên người không
một vết dơ, mặc dù công việc dơ dáy đang làm, một ít nước dơ hay dầu mỡ có
dính vào cũng được thông cảm.
Khi bà
mới bước vào bếp, cô đứng dậy cúi đầu chào lễ phép, rồi quỳ xuống tiếp tục công
việc. Bà Fawcett không thể phiền trách, nhưng có điều gì đó từ trong cái ngăn nắp,
gọn gàng ấy chọc tức bà. Không mạnh mẽ lắm,
nhưng đủ để trước khi bà rời nhà bếp, bà
nói:
-
Daisy May! Ta mong cô không ở đó
mà dềnh dàng. Nên nhớ là cô ở đây phụ giúp bà bếp cho hữu hiệu.
Daisy
May lại cúi đầu và nói:
- Thưa bà
vâng ạ! - Rồi cô lại cúi xuống tiếp tục
kỳ cọ lau chùi. Bà Fawcett rời bếp và bỗng thấy tóc tai mình không được gọn ghẽ
như thường lệ.
Vài tuần
lễ sau đó, bà lại chạm trán khi cô rời nhà sau bữa ăn trưa trong một buổi chiều ngày Chúa Nhật được nghỉ
làm để thăm viếng gia đình Willoughbys. Một lần nữa, trông cô hoàn toàn tươi trẻ.
Tóc cô bóng loáng như vừa mới gội. Cái
ren cô gắn thêm vào chiếc áo ngày Chúa Nhật làm nổi bật khuôn mặt nghiêm trang
và sáng rỡ. Cô đội trên đầu cái mũ mầu
xanh đậm, tay cầm cuốn Thánh Kinh. Bọn người làm việc trong nhà luôn luôn đi về bằng cái cổng nhà bếp, băng ngang qua khu vườn trồng rau để
ra đường và vì thế không bao giờ gặp những người đang ở trong nhà. Nhưng hôm ấy
bà Fawcett đi kiểm soát những luống dâu của bà . Thấy cô bé đi ra bà chận lại.
- Daisy
May!
- Dạ, thưa bà! – Cô quay lại và bước dọc theo lối đi xuống
những luống dâu. Đã gọi cô lại rồi, nhưng
bà chưa nghĩ ra nên nói gì.
- Cô đã
làm xong nhiệm vụ chưa?
- Thưa
bà đã xong.
- Chén
đĩa bữa trưa đã rửa chưa và trà nước cho buổi điểm tâm chiều đã chuẩn bị
sẵn sàng chứ?
- Dạ đã
xong hết.
Bỗng
nhiên bà bắt gặp một mùi thơm thoang thoảng mà bà không chắc đó có phải mùi hương từ những
luống dâu của bà hay không.
- Lại gần đây coi!
Daisy
lết tới gần.
- Cô có xức dầu thơm phải không?
- Dạ có dùng một chút nước hoa nhẹ, thưa bà! Đó là quà Giáng Sinh của ông bà Willoughbys
cho cháu. - Một ít sắc hồng ửng lên trên cổ. -
Cháu chỉ dùng một chút vào Chúa Nhật thôi thưa bà!
Cái đỏ
bừng trên mặt cô làm bà hả dạ một cách vô lý: Hài lòng vì đã làm cho cô bối rối.
- Ta không
chấp nhận người làm trong nhà xài dầu thơm,
Daisy May nghe rõ chứ?
- Dạ thưa
bà!
- Nhưng
do bởi người thân cô cho, ta không muốn nói gì. Nhớ tắm gội cho sạch mùi trước khi lên giường tối
nay.
- Dạ thưa
bà. - Mặt cô càng đỏ hơn.
- Cô có
thể đi được rồi.
Bà nhìn
theo cô bước đi giữa những hàng đậu. Một đứa con gái nhỏ nhắn, dường như trong
mấy năm qua, cô bé chẳng cao lớn lên được bao nhiêu, nhưng với bờ vai thẳng băng,
với bước đi gọn gàng, bà Fawcett thấy trong người nổi lên một làn sóng tức bực
vì đã để cho cô ở lại trong hệ phái Anh
Em. Đáng lẽ bà phải quyết tâm buộc cô trực
thuộc vào giáo hội Anh Giáo như những người hầu khác. Việc nhượng bộ cho cô có những
buổi chiều Chúa Nhật với gia đình
Willoughbys rõ ràng cho con bé có phần tự
do nào đó làm bà cực kỳ phẫn nộ.
Sự việc
xem ra thật tầm thường nhỏ bé, nhưng bà thấy nó cứ tiếp tục làm bà bứt rứt, cứ ám ảnh trong đầu
vào những lúc không bận rộn với trạng thái
rõ ràng là không thoải mái. Nó trở
nên không hợp lý đến nỗi cứ mỗi khi thấy
cô rời nhà để đến với gia đình Willoughbys vào mỗi Chúa Nhật cách tuần là bà thấy
bực bội nguyên ngày hôm đó.
Đôi
khi bà cũng tự hỏi sao bà đã không chỉ
việc đưa ra một mệnh lệnh buộc con bé phải tham dự vào ban Thánh Ca như những đầy
tớ khác? Nhưng là một người tự hào là một
tín đồ ngoan đạo luôn coi trọng lời hứa.
Trước những ngày nhận Daisy May vào nhà, bà đã long trọng hứa với bà
Willoughby rằng cứ mỗi Chúa Nhật cách tuần, con bé thuộc về gia đình Willoughbys
và giáo hội Anh Em.
Bà đã
có cơ hội đặt lại vấn đề khi bà Willoughby xin gặp bà để bàn về việc cho Sophie
vào làm việc trong Nhà Trắng.
Bà
Willoughby vào phòng khách riêng của bà
mang theo một đứa con gái mười bốn tuổi
tóc tai luộm thuộm bó thành một búi
ở trên cổ. Bà mời bà Willoughby ngồi, con bé đứng trên một chân, trông hơi bực
bội sốt ruột.
- Vậy đây là con gái út của bà . – Bà
Fawcett lấy giọng khả ái nói.- Không biết bà đã rời việc nhà này
bao lâu rồi nhỉ?
- Mười
chín năm thưa bà!
- Gia đình
mạnh khoẻ cả chứ?
- Ồ vâng
thưa bà! Ông nhà tôi thì cũng đại khái tàm tạm, từ sau cái tai nạn hôm ấy như bà cũng
đã biết. Thằng con trai tôi đi làm cho hoả xa
ở Ba Cầu. Còn Lillian đứa con gái lớn đã học nghề gần xong với cô Clark.
- Bây
giờ bà muốn Sophie đến đây học việc?
- Nếu có chỗ trống thưa bà! Tôi có nghe là Meg
Lenkins đã thôi việc, nên nghĩ là bà có thể có chỗ trống cho Sophie. – Ngưng lại
một chút, rồi bà nói tiếp,- Tôi hy vọng
nó đưọc làm ở trên nhà, không phải trong nhà bếp.
- Ừ…Được…Để
tôi coi. Có thể tìm một chỗ cho cô . Con
bé còn trẻ , cần phải được huấn luyện..
- Công
việc trong nhà nó khá rành rẽ, thưa bà! Tôi biết điều ấy. Con nhỏ biết cách làm
việc sao cho đúng.
- Tôi biết.
- Bà Fawcett cắn chặt làn môi mỏng nhìn
Sophie đăm đăm. Con bé có khuôn mặt khá sáng sủa, thông minh, không xinh đẹp nhưng thông minh. Nó khá sạch sẽ,nhưng
hơi luộm thuộm. Một bên vớ hơi nhăn nhúm và tóc tai cần lưu ý.
- Con bé
có đồng phục để làm việc chưa?
- Dạ có rồi thưa bà! Con chị nó đã may vá đầy đủ cho nó. Cô gái lớn của tôi, Lillian đó, nó đang
học nghề…
- À! Tôi
biết, bà đã nói rồi. Được, tôi nghĩ chúng tôi sẽ nhận nó vào làm thử trong sáu tháng, Dĩ nhiên là phải ngủ lại.
- Dạ dĩ
nhiên.
- Tôi sẽ
trả lương khởi đầu với giá mười lăm bảng một năm. Sau đó tuỳ khả năng của nó.
- Cám ơn
bà. – Bà quay sang Sophie và ra dấu cho cô bé. Cô cúi đầu và nói lời cám ơn với
bà Fawcett. Bà gửi lại cô một nụ cười thân
thiện. Con nhỏ đúng là mẫu người giúp việc
trong nhà bà ưa thích: mạnh khoẻ, sạch sẽ,
có xuất thân hoàn hảo, và chắc chắn
cần mài dũa ở nhiều khía cạnh. Điều gì chứ chuyện gọt dũa cho nên người, bà là
số một.
- Nhân tiện
có bà đây, bà Willoughby à! Tôi muốn đưa vấn đề
con bé nhà Bashinskeys ra nói.
Bà
Willoughby hơi có vẻ rối trí:
- Cô bé
làm bà hài lòng chứ thưa bà ? Cô bé tính tình tốt lắm mà, trầm lặng, sạch sẽ ngăn
nắp cư xử khéo léo đến nỗi tôi không thể hình dung làm sao nó có thể gây phiền toái.
- Không
có chuyện gì cả, ngoại trừ đôi khi trong
một vài hành vi. Con bé không đủ…lễ độ như tôi mong muốn. Mặc dù rất thông cảm với bà về ngày Chúa Nhật nghỉ việc của nó, tôi
vẫn cảm thấy là tốt hơn nó phải đi nhà thờ chung với những người giúp việc khác.
Bà
Willoughby không nói gì. Bà ta nói tiếp:
- Một vấn
đề là, mỗi chiều Chúa Nhật ở đây đều có lớp học Thánh Kinh cho các cô gái.
Những ngày Chúa Nhật ở lại nhà, dĩ nhiên
Daisy May phải tham dự. Điều đáng tiếc là mỗi chiều Chúa Nhật nghỉ làm,
nó lại không có mặt ở lớp.
- Nhưng
nó cũng có dự lớp Thánh Kinh ở sảnh đường chúng tôi mà.
- Đúng
vậy! Và đây là điều tôi đang muốn nói đến. Sẽ tốt hơn rất nhiều nếu ta để cho nó thực thi công việc thờ phượng ở một nơì thôi.
Gương
mặt của bà Willoughby biểu lộ một sự lịch
sự nhưng thật cương quyết. Bà Fawcett nhận ra
ngay cái biểu lộ ấy. Bà đã từng thấy trên gương mặt của những nguời Phản Thệ
trong làng.
- Việc
này, tôi phải về bàn lại với chồng tôi. – Bà nói với giọng hững hờ. Họ luôn luôn nói thế. Những người đàn bà ở trong giáo phái này , họ
đều cứng cỏi và quả quyết như bất cứ người đàn ông nào, nhưng khi cần họ cho biết
về một quyết định nào đó, họ luôn luôn giả vờ như những kẻ mềm yếu phải chờ thẩm
quyền của phái nam. Bà Fawcett cảm thấy
tức tối.
- Tôi
thực sự không thấy ông nhà bà có liên
quan gì tới chuyện này. Đây là nhà của Daisy May . Nó ở dưới quyền chăm sóc của
tôi với đầy đủ sự cho phép của cha xứ và của hội đồng giáo xứ. Gia đình tôi có
trách nhiệm cả về vật chất và tinh thần của nó.
Bà
Willoughby ngồi thật ngay ngắn trên ghế:
- Đúng
như vậy thưa bà! Tuy nhiên, bà cũng nên biết , khi mẹ con bé qua đời, bà ấy đã
tin tưởng giao phó cho tôi trách nhiệm nhìn thấy nó nên người. Chúng tôi không
có khả năng nuôi dưỡng, nhưng chúng tôi luôn luôn muốn làm mọi điều đúng đắn cho nó. Và tôi không nghĩ rằng, việc thay ngựa giữa
giòng như bà muốn, xin lỗi bà tôi phải nói thẳng, là việc làm đúng đắn.
Bà
Fawcett thấy nóng mũi:
- Đương
nhiên, lẽ ra ngay từ đầu tôi không nên
nhượng bộ. Lẽ ra tôi phải bắt nó vào nhà
thờ ngay từ ngày thứ nhất đến ở đây.
- Và đương
nhiên, - Bà Willoughby cướp lời như là không nghe thấy bà Fawcett nói. - Mẹ của Daisy là một tín đồ của Quaker thì tôi
nghĩ việc lựa chọn hình thức thờ phượng
của nó phải theo hướng niềm tin của mẹ nó hơn là của nhà thờ (Anh Giáo).
Có một
sự im lặng lạnh lùng trong phòng khi đối
thoại của hai người đàn bà đi đến chỗ bế tắc. Bà Fawcett không muốn dùng vị trí
quyền hạn của mình để gây sức ép, còn bà Willoughby cũng không sẵn sàng chịu
áp lực, ngay cả với sự kiện là con gái bà vừa mới được nhận vào làm. Đôi mắt của Sophie cứ đảo qua đảo
lại từ bên này sang bên kia, sự chú tâm của cô vào cuộc đấu dâng cao và cô mong
mẹ cô sẽ thắng.
- Riêng
tôi. – Bà Willoughby điềm tĩnh nói. - Tôi
nghĩ là tình trạng hiện tại đã quá sòng phẳng. Con bé dự lớp của bà một tuần, dự
lớp của chúng tôi một tuần. Khi nó đủ khôn lớn, nó sẽ tự chọn cho mình nơi nào
nó muốn.
Lại một
hồi im lặng khi bà Fawcett chờ bà
Willoughby nhượng bộ một cách vô ích. Nhưng bà biết bà kia sẽ không bao giờ nhượng
bộ và bà bỗng nhiên nhận ra mình thật
ngu ngốc khi cứ tiếp tục cuộc đấu tranh cho linh hồn của một đứa đầy tớ tầm
thường không quan trọng. Ba năm trước bà đã
có lời hứa với bà Willoughby. Bây giờ bà
vi phạm lời hứa ấy thì chính bà sẽ bị mất mặt.
- Đành
chiều ý bà thôi, bà Willoughby! – Bà ta lạnh lùng nói, và đứng dậy ra dấu buổi phỏng
vấn đã kết thúc
- Ồ! Chúng
ta chưa thảo luận về ngày nghỉ của Sophie. – Bà Willoughby nói trên đường ra cửa.
- Cách
mỗi Chúa Nhật, và thêm một buổi tối cũng cách mỗi tuần. Tôi cũng mong cô bé trở
lại trước chín giờ tối trong những ngày nghỉ. – Bà đã tính trong đầu là sẽ cho Sophie mỗi tuần nghỉ một buổi, nhưng thái
độ của bà mẹ cô đáng bị trừng phạt.
- Vậy cũng
được. Bà muốn khi nào cháu nó khởi sự làm việc?
- Bà có
thể mang đồ đạc của nó tới vào chiều thứ
Bảy.
Bà thấy
hài lòng khi nhìn gương mặt của Sophie xụ xuống đầy vẻ chán nản. Bà thấy sắp đặt
cho cô ta như vậy thật tuyệt. Dù gì, chính mẹ nó là người đã gây ra sự phiền hà đáng tiếc đó.
Cũng thật
lạ, chỉ sau vài ngày, bà không còn thấy mối ác cảm với bọn nhà Willoughbys nữa.
Mọi sự phẫn nộ về việc này đều trút lên đầu con bé Daisy May. Dẫu sao mọi sai
trái cũng tại nó.
Thêm một
cái giường sắt nữa được đưa lên căn gác xếp trên mái. Sophie đến vào chiều thứ
Bảy, có bố đi theo mang rương cho cô. Ông bước vào nhà bếp, đưa nó lên bốn dãy
cầu thang. Khi trở lại, ông chào bà bếp, nháy mắt với Sophie và ra về. Sophie đứng
nhìn với sự thất vọng. Cô bắt đầu vào làm việc sau Daisy May ba năm.
Dù cảm
thấy chán nản với vị thế mới, cô bé nhanh chóng nhận ra, so với Daisy May, cô
chẳng có gì đáng phàn nàn. Daisy May có thời gian kinh nghiệm trong công việc. Điều
này đáng lý phải được thể hiện ở một vài lối đối xử nhỏ nhặt nhưng rất rõ ràng: được lấy cơm trước trong bữa ăn, được phép lâu
lâu đi ra khỏi nhà trong phút chốc dù không
phải ngày nghỉ. Nhưng ngày càng trở nên
rõ ràng là Daisy May chẳng có những ân huệ ấy. Vẫn là một đứa trẻ mồ côi sống
nhờ lòng thương hại, chờ để mọi người
sai vặt vào bất cứ công việc gì họ làm
không kịp. Sophie, lúc đầu còn ngạc nhiên, mau chóng thành bực bội cho Daisy May, và cuối cùng bùng lên cơn thịnh nộ khi khám phá ra cô bé
không hề được trả tiền công.
- Làm
sao bà ta có thể. - Cô bé rít lên giận dữ.
- Sao bà ta thuê mướn cô làm mà không trả
một cắc bạc nào? Tớ sẽ nói với mẹ và với
bố. Thế nào ông cũng phải làm gì đó cho việc này. Sao bà ta dám làm thế! Trong
khi tớ đã được trả mười lăm bảng một năm
mà còn chưa được huấn nghệ để làm một công việc nào.
-
Sophie! Mong bồ đừng nói cho ai
biết chuyện này. – Daisy May cương quyết nói. -
Tớ đã tính toán theo ý tớ. Bà ta đã cho ăn ở miễn phí trong hai năm khi
tớ còn đi học. Tớ sẽ làm không công cho bà ấy thêm hai năm nữa để trả nợ. Sau đó
tớ sẽ xin bà trả lương.
- Như vậy
đâu có công bình. – Sophie la lên. - Dù khi bồ còn đi học, bồ cũng đã làm bao việc
cho bà ấy. Vả lại, bà ấy cho bồ gì nào ngoài một ít thức ăn thừa và vài mảnh
tạp dề để làm việc? Ý của tớ là rồi bồ làm sao sống? Tiền đâu cô bỏ nhà thờ mỗi Chúa Nhật và mua sắm
những đồ cần yếu cho con gái?
- Bà Bramble sẽ cho bà Fawcett biết khi nào
tớ cần vớ mới hay cần sửa chữa giày dép.
Bà ấy cũng bỏ ít đồ đạc tớ cần vào hộp làm
quà Giáng Sinh cho tớ. Ngoài ra tớ cũng làm hết mọi việc giặt giũ và may vá cho
bà Bramble và bà trả tớ ít tiền đủ cho tiền cúng nhà thờ và có dư lại một chút để tiết kiệm.
- Thật là!
Tớ sẽ bảo mẹ. Bà sẽ đưa bồ ra khỏi đây tìm cho bồ chỗ khác. Như thế này là không được. Không đúng tí nào cả!
- Làm ơn
đừng cho ai biết đi Sophie! – Daisy May nói bằng một giọng thật quả quyết. - Tớ đã
suy nghĩ nhiều về điều tớ sẽ làm. Tớ không muốn bỏ chỗ này. Đây là chỗ tốt
nhất trong làng để học việc. Mẹ bồ biết điều đó mà. Vì vậy bà mới đưa bồ vào đây
làm. Đồ ăn ở đây cũng rất khá. Hãy
coi những gì mấy người làm được ăn ở Borer hay ở nhà xứ mà coi.
- Bồ có
thể có thiếu gì chỗ tốt như thế này ở nơi khác Daisy! Có lẽ làng này không có,
nhưng trên phía Edenbridge kìa, thiếu gì
những nhà giàu ở đó.
- Nhưng
tớ không muốn bỏ làng này mà đi. - Có sự
thiết tha tuyệt vọng trong giọng nói của
cô bé. Từ kinh nghiệm đã qua, cô biết sự thành tâm và cương quyết của Sophie, một
khi đã đi vào đầu thì khó mà ngăn cản nổi. - Tớ yêu cái làng này và không bao
giờ muốn rời xa nó.
Sophie
trố mắt kinh ngạc:
- Ở lại
đây suốt đời? Không đi đâu hay không làm
gì khác hứng thú hơn. Ồ tớ chỉ mong có cơ
hội. Phải chi tớ là con trai, tớ sẽ ra làm
ở sở hoả xa giống như anh Edwin. Thử nghĩ đến những nơi chốn khắp nơi anh sẽ đi.
- Tớ đã
đi đủ rồi. – Daisy May vắn tắt nói. - Cái
tớ muốn trong suốt quãng đời còn lại là ở yên một nơi, có một mái nhà xinh xắn
trên đầu với một mảnh vườn và các bạn bè họp mặt trong các ngày lễ Chúa Nhật, một
con chó , một con mèo, ít đồ sứ và mọi người biết tớ là ai khi tớ đi vào tiệm
mua sắm. Và khi chết, tớ mong được chôn trong nghĩa trang nhà
thờ bên cạnh mẹ tớ. – Cô nhìn Sophie mỉm cười trong khi cô này ra vẻ bối rối và
hơi có sắc giận. - Bồ chẳng bao giờ thực sự hiểu được, Sophie à! Bởi vì bồ đã có
tất cả những cái tớ mơ ước muốn có. Bồ luôn luôn có nên bồ không thấy chúng có
nghĩa lý gì. Nhưng đó là vì sao tớ muốn ở
lại đây, trong căn nhà này, mặc dù tớ biết bà Fawcett không ưa tớ. Nếu tớ ở đây, tớ đã có một vị trí trong làng này và
sẽ có ngày người trong làng quên đi chuyện của bố tớ và – cô nuốt nước miếng một
cách khó khăn. – và của Galina. Tớ sẽ thành
Daisy May Barshinskey của nhà Fawcett.
Cô thật
quyết liệt. Không có lời khuyên bảo nào của Sophie có thể lay chuyển được cô. Hầu như mọi nơi mọi việc, cô đều làm theo ý của
Sophie, nhưng khi đã quyết định chuyện gì, cô không chịu khuất phục.
Làm việc
không lương thêm hai năm như ý cô nói, và
rồi một buổi sáng, cô xin được nói chuyện với bà Fawcett khi bà sắp rời nhà bếp.
- À,
chuyện gì thế, Daisy May. Ta nghĩ là bất cứ chuyện gì thì cô cũng có thể nói
trước mặt bà Bramble được mà.
- Dạ thưa
bà, là chuyện riêng.
- Vô lý!
Làm gì có chuyện gì của cô mà nó là riêng
tư ở đây được? Chuyện cô muốn là gi vậy? Ta không có cả buổi sáng để tán gẫu
trong bếp đâu.
- Xin
vui lòng thưa bà! Tôi đã mười lăm tuổi rồi.
- Điều đó
ta biết mà Daisy!
- Bà rất
là tử tế cho phép tôi ăn ở đây trong thời
gian hai năm tôi còn đi học. Khi rời trường , tôi đã mười ba và đã làm việc toàn
thời cho tới giờ là hai năm và tôi xin
phép được hỏi: thưa bà, đã đến lúc bà cứu
xét đến việc trả lương cho tôi chưa ạ?
Gương mặt
của bà Fawcett từ từ đỏ bừng lên. Bà ném những tia nhìn giận dữ về phía bà
Bramble khi bà này ra vẻ hứng thú với câu chuyện, nhưng thấu hiểu cái nhìn giận
dữ ấy, bà biến nhanh vào trong phòng giặt
giũ.
- Ta không
hiểu cô lắm Daisy May! Ta cứ nghĩ đây là nhà của cô.
- Ồ không
thưa bà! – Daisy May lễ phép trả lời. – Bà đã rất tốt cho phép tôi vào ở khi tôi không có chỗ để đi, nhưng đây không phải nhà
tôi. Nhà là nơi chúng ta sống chung với những người thân thuộc phải không ạ?
- Tôi
không được biết là cô còn bất cứ người thân nào để sống với.
Bà
Fawcett lạnh lùng nói và cảm thấy hài lòng
thấy cô ngập ngừng do dự.
- Đúng
vậy thưa bà! Nhưng đồng thời tôi cũng tự hỏi xin bà có thể coi lại vấn đề trả lương cho tôi
giống như những người giúp việc khác.
- Ta sẽ
coi lại vấn đề. – Bà Fawcett lấy lại oai
phong nói khi bước ra cửa. Trước khi bỏ đi bà còn nghe tiếng cám ơn lễ phép của
cô bé. Bà chắc sẽ còn thoả mãn vô cùng nếu bà đã nhìn thấy, sau khi bà rời khỏi
phòng, Daisy May dựa lưng vào bàn để giữ
thăng bằng cho đôi chân đang run bần bật. Bà không ưa con nhỏ, nhưng thật tình
mà nói, vấn đề lương lậu của nó bà quên khuấy đi mất. Khi bà cho nó một nơi chỗ
trú ngụ, bà không nghĩ gì về nó nữa. Dù là một người đàn bà tâm địa hẹp hòi, bà không phải là người hà tiện. Bà tức
giận ở chỗ phải để cho con bé chỉ ra cái sai sót của một chủ nhân như bà. Không chịu được cái việc bà phải chờ Daisy
May yêu cầu bà trả lương cho cô, bà gọi bà đầu bếp đến.
- Bà bếp
này, bà có thấy con Daisy May được việc không?
- Rất
được, thưa bà! Cô ấy tuy nhỏ bé nhưng chịu khó và có khả năng. Cô ta sẽ thành một đầu
bếp giỏi. Tôi dạy cô thật dễ thưa bà. Thật vui thích khi huấn luyện một người
ham học hỏi như cô.
- Vậy à!
Thế thì…bà có thể cho con nhỏ hay tôi sẽ trả nó mười ba bảng một năm. Nhưng dĩ
nhiên từ giờ trở đi, nó phải tự sắm sửa quần áo và giày vớ.
- Tôi sẽ
nói thưa bà. Và tôi nghĩ là bà sẽ thấy đồng tiền bỏ ra không lãng phí chút nào…
Bà
Fawcett đã trút được ít oán giận vào ngày
Chúa Nhật kế tiếp khi Daisy May tham dự lớp Thánh Kinh của bà. Trong bài cầu
nguyện, bà đã đọc một lời cầu đặc biệt tới
Thiên Chúa cho một đứa trẻ hiện có mặt có
được lòng biết ơn, khiêm tốn với những gì nó
có được từ những người thi ân quảng đại cho nó. Một cái liếc thoáng qua gương mặt của Daisy
sau tiếng Amen làm cho bà thấy mát ruột.
Trong
những năm kế tiếp, Daisy May không bao giờ theo kịp lương bổng của Sophie, nhưng
cô chẳng phiền hà gì, và bằng cách nào đó, cô luôn luôn có nhiều tiền hơn bạn.
Sophie thường hay mua bán những thứ vô ích hoang phí, chẳng hạn như đặt cọc mua
một bộ từ điển bách khoa, nhưng chẳng bao giờ có tiền cho việc trả góp. Cô hay tiêu tiền vào đủ loại hàng
mà mẹ cô gọi là thứ rác nhà :
chiếc khăn choàng cổ bằng lụa cũ trông tưởng như từ Trung Quốc, cái chuông Ấn Độ hình con voi bằng
đồng, con cá sấu màu ngà nói là được làm
bằng ngà voi thật. Sophie chẳng bao giờ có thể chống cự lại những gì mới lạ, và
căn buồng ngủ sát mái của hai đứa, thỉnh thoảng
ngổn ngang như một chợ trời (phải
vội vã dẹp bỏ vào thùng khi bà Fawcett lên kiểm phòng). Cô không thể hiểu, làm
sao Daisy May lãnh lương ít hơn lại có nhiều tiền hơn.
- Bộ không
bao giờ bồ đi mua đồ dùng như sách vở, quần áo sao Daisy? Bồ không thấy chán cứ
phải may vá hay sửa lại đồ người ta thải ra?
- Sẽ có
ngày mình tiêu hết. Tớ đang để dành, nhưng
rồi bồ thấy, sẽ có một ngày tớ đi ra ngoài
và tiêu thả cửa.
- Khi nào mới tới, Daisy?
- Chưa
biết, nhưng tớ sẽ biết khi nào. Có lẽ có
ngày Ivan sẽ trở về và chúng tớ sẽ có nhà riêng. Tớ sẽ mua màn cửa , chăn nệm. đồ sứ … Mọi vật thật mới, thật đẹp.
- Ồ
Daisy! – Sophie mơ mộng. - Bồ không mơ ước
được như Edwin hay Ivan sao? Họ có cuộc sống kỳ thú biết bao. Không như bọn mình,
chẳng có gì kỳ lạ xảy ra cho bọn mình cả.
- Tớ nghĩ đời sống là một kỳ thú. – Daisy nói. – Chính
đời sống đã rất kỳ thú rồi.
Sophie
nhìn bạn với sự kinh khiếp.
- Đâu thể
nghĩ vậy Daisy! Sao bồ có thể nghĩ như
thế? Bồ có bao giờ gặp chuyện lý thú chưa?
Đó là
một ngày Chúa Nhật được nghỉ .Họ thay đồ
để chuẩn bị về nhà. Daisy buông cái
lược xuống bàn ngó ra ngoài cửa sổ.
- Hôm
nay tớ làm bánh phồng, và bà Fawcett nói với bà Bramble là nó ngon lắm. Bà ấy tưởng bà bếp làm. Và mùa xuân đang đến. Thật
thích thú khi mùa xuân đến. Và, - Cô nhìn Sophie ra vẻ cảnh giác.- hôm nay là
ngày nghỉ của Edwin, chúng ta sẽ gặp anh.
- Đúng
vậy. Tớ nghĩ anh Edwin về cũng là một việc
đáng mong đợi.
Đứa
anh trai cao lớn đẹp trai của họ được mong ngóng với sự
say mê những thứ anh kể mà chỉ có thể biết
khi sống ở Luân Đôn. Về với gia đình, anh thường tóm lược đời sống thành phố, về sự tinh tế. Và khi không có mặt bố
mẹ ở bên cạnh, anh luôn luôn
có những giai thoại kỳ bí ở trong đó: những hí viện, đại khách sạn, công thự và đủ thứ loại vừa hung hiểm và vừa đáng
khát vọng.
Thường
thường anh đứng chờ họ bên ngoài cửa bếp, nhưng hôm nay, cả hai sa sầm nét mặt khi không nhìn
thấy anh.
- Hy vọng
anh còn đang nói chuyện với bố ở nhà. – Sophie nói và hai đứa tất tả trở về, rẽ vào lối đi tắt băng qua cánh đồng.
Cả hai đứa bỗng thấy nóng lòng, có thể vì những tia nắng hiếm hoi mùa đông, hoặc có thể vì đang nói với nhau về thái độ khích động hơn bình
thường của Edwin lần về nhà trước. Khi họ
về tới nhà, Lillian đã sẵn sàng
cho buổi học Thánh Kinh và đang đội mũ ở phòng khách. Căn nhà vắng lặng.
- Mọi
người đâu cả rồi. – Sophie xẵng giọng.
- Bố mẹ
đang nghỉ trên lầu.
- Anh
Edwin đâu?
- Không
về. Nó có nhắn. Nó phải làm thêm.
Phải mất một hồi hai đứa mới lấy lại bình tĩnh.
Thật là ngu ngốc, Edwin đâu phải có mặt mỗi cuối tuần. Và ngày nghỉ là ngày nghỉ, phải lấy nó để vui chơi chứ! Có
lẽ vì họ mong đợi anh quá, và bây giờ ngày
Chúa Nhật nghỉ chỉ có bố mẹ và Lillian
thành ra hơi nhàm. Không sao. Đành chờ lần
tới…
Nhưng
một tháng trôi qua, dù có làm thêm bao nhiêu phiên phụ trội thì cũng phải có ngày
nghỉ chứ! Edwin vẫn không thấy về.
Lúc đầu
khá thưa thớt. Anh gặp Galina và ông
Rautenberg tuần một lần. Cái viếng thăm tuần một lần đó như một ngọn hải đăng dẫn đường cho những ngày tiếp theo, kéo
theo từng giờ đưa anh vào trong quỹ đạo của họ. Suốt cả tuần anh nghĩ đến hình ảnh cô, nét mặt
cô thế nào khi cô nghiêng nghiêng, đôi mắt cô khi vàng rực khi đen
lánh, đăm đăm nhìn anh làm anh mất hồn, không thể nào quay mặt đi chỗ khác. Cô lại có
lối tiếp xúc va chạm thân mật đến bất cần, vui cười vì vài câu đùa bỡn của anh và cứ mở miệng ra
với tiếng “ôi anh Edwin yêu quí”,vuốt nhẹ bàn tay êm ái của cô lên vai lên cổ anh làm cho
bầu máu nóng trong người như chảy mạnh hơn. Mọi thứ liên quan đến cô đều xinh đẹp.
kích thích và ấm áp. Đôi khi cô có vẻ ngây thơ như một đứa trẻ: đi dạo dọc theo bờ sông ăn hạt dẻ rang nóng hổi
cũng làm cô say mê như khi ngồi ăn tối trong
quán cà phê Hoàng Gia sang trọng. Edwin chưa bao giờ dạo chơi với họ, nhưng khi mới nói là sẽ đi là cô đã vỗ tay ra vẻ rất
sung sướng rồi.
Anh cố
đóng góp phần của mình vào những cuộc vui chơi đó, tuôn ra những mớ tiền tiết kiệm vào những
chai rượu sâm banh quá khả năng của anh, trả tiền tắc xi và thỉnh thoảng cho những vé thượng hạng trong rạp hát.
Anh đi mua một bộ đồ dạ hội cũ ở đường
Petticoat đem về sửa lại cho vừa vặn. Có thể thấy nó không hoàn toàn giống y như những bộ đồ người ta đang mặc chung quanh, nhưng anh
vẫn phải mua. Nó cho anh cái cảm giác không
phải là người ngoài, nhưng là một phần tử
trong một thế giới ảo tưởng tuyệt vời mà
anh biết sẽ chỉ có trong một thời gian ngắn ngủi.
Anh gắng
hết sức mình, cố giữ niềm kiêu hãnh và sự
tự trọng. Nhưng như thế, anh vẫn dư biết
những buổi tối thân thiết vui vẻ của họ
hầu hết do ông Rautenberg bao biện chi trả. Có đôi lần họ đến dự những
buổi tiệc do đám bạn nghệ sĩ của Galina khoản đãi và họ không phải
chi. Vậy là được. Anh thấy mình bình đẳng với họ. Còn hầu hết những lần khác, ông
Rautenberg đã chi đủ mọi thứ từ chỗ ngồi
riêng trong rạp, các bữa ăn, trò vui chơi giải trí và cả tiền tắc xi cho những
chuyến đi dài.
Ngày
thứ Bảy ờ tại phòng Galina hôm đó đã tạo
thành một khuôn mẫu cho những buổi tối vui chơi sau này. Edwin
mang đến một chai sâm banh với giá
năm bảng Anh, một món tiền lớn so với số lương hàng tuần, và một bó hoa. Ông
Rautenberg mang đến trứng cá caviar, cá
hồi xông khói, thịt heo hộp, nho, bia lạnh
và mấy chai sâm banh. Ông ra vẻ trân trọng anh, nhất quyết đòi mở chai sâm banh
của anh trước tiên và khen nó rất ngon, dù khi mua anh chẳng kinh nghiệm gì,
hoàn toàn nhờ cậy vào người bán rượu. Dù sao cũng phải chấp nhận sự kiện là bữa ăn tối do ông
Rautenberg cung cấp. Galina có mời thêm một người bạn nghệ sĩ, một cô gái tóc vàng
chuyên hát những bài ca hài hước mà
Edwin không nhớ cả tên cô.
Buổi
tiệc cuối đã đến vào tháng Hai. Từ hôm gặp
lại đến giờ đã sáu tuần lễ, sáu tuần sống trong một cuộc sống vui nhộn, ảo tưởng
khó tin mà Edwin chắc là sẽ kết thúc khi ông Rautenbergt trở lại Nga. Làm sao anh có thể chi trả
hào phóng cho những lần gặp gỡ
đi ra ngoài vui chơi đáng nhớ của họ như thế?
Vào đêm gặp gỡ cuối cùng, ông Rautenberg cho biết
ông sẽ mang đến cho họ một
ngạc nhiên. Ngạc nhiên này đến khi chiếc tắc xi thay vì đi đến nhà hàng ở Long Acre, hay ở Pagani, đã
đi vào những con đường nhỏ xíu như mê lộ ở công viên Leicester. Edwin chẳng xa
lạ gì với khu phố Soho này, nơi làm anh
thích thú với cư dân thuộc loại tứ xứ và những
tiệm ăn ngoại quốc đủ loại. Thường thường anh bỏ ra một vài giờ vào những buổi tối thứ
Bảy đi lang thang trong khu chợ đêm, nhìn những khuôn mặt sậm màu hớn hở dưới ánh đèn dầu bập bùng trong sạp. Anh đã mua rượu sâm banh ở đây cùng mua ăn thử một mớ thức ăn tầm thường hơn
. Nhưng anh chưa bao giờ bước vào một quán
cà phê hay tiệm ăn ở đây chỉ vì cái cảm giác
ngại ngùng cho rằng mình là một người ngoài không nên can dự vào nhà riêng của họ.
Nhưng
giờ ông Rautenberg lại dẫn họ tới một cánh cửa màu xanh vắng lặng và không khoa
trương, từ trong đó bay ra một mùi lạ. Họ được đưa vào một căn phòng nhỏ không
quá mười hai bàn, trên tường dán giấy đỏ sậm
có viền nổi chung quanh. Một tấm màn
sang trọng màu mận đỏ buông rũ từ
trên trần xuống giữa phòng, đằng sau đó
là cây đàn dương cầm và một khoảng trống.
- Tốt lắm.
Ông Rautenberg nói. – Chúng ta sẽ có một
bữa ăn hoàn toàn đặc sản Nga ở đây, nơi duy nhất ở Luân Đôn bán thực phẩm Nga đáng thưởng thức. Sau đó chúng
ta sẽ khiêu vũ.
Edwin
cảm thấy một niềm hạnh phúc vô vàn tràn
ngập tâm hồn anh. Đó là đêm cuối cùng của họ
và anh biết sẽ là một đêm hoàn hảo nhất. Anh không biết khiêu vũ,
nhưng không thành vấn đề. Có mặt ở đây
trong cái thế gìới đầy ánh sáng, âm thanh và màu sắc cùng với hai con người, vì
lý do nào đó không giải thích được, đã
quyết định lôi kéo anh vào cuộc sống của
họ.
Ông
Rautenberg gọi thức ăn bằng tiếng Nga.
Galna vỗ tay cười và nói:
- Ông ấy nói gì em hiểu hết. Giống như hồi trước em nói chuyện với bố vậy.
- Rồi cô nghiêng đầu qua phía ông Rautenberg. – Khi nào ông đưa em đến St
Peterburg, ông Heikki, em hiểu hết mọi thứ, em có thể nói chuyện với mọi người.
Họ uống
sâm banh và vốt ka, ăn một bữa mà Edwin
không biết là các món gì. Trong lúc buổi tiệc diễn tiến, Edwin cố tự an ủi với ý nghĩ rằng đây không phải là lần gặp nhau
cuối cùng. Anh vẫn có thể đi xem cô trình
diễn trên sân khấu, sau đó có thể gặp cô trong khoảnh khắc ở phòng trang điểm của
cô và có lẽ sau khi ông Rautenberg trở lại.
Nhưng không, với niềm kiêu hãnh và lòng
tự trọng, anh không thể tiếp tục cứ luôn luôn là khách, là kẻ đi gọi tắc xi, là người nói lời cám ơn, là
người ngưỡng mộ và luôn có cảm giác bước vào thế giới nhung lụa.
- Sao thẫn
thờ quá vậy, anh bạn trẻ? Chắc tại thức ăn. Thực phẩm Nga có lẽ hơi nặng bụng
cho dân Anh phải không?
- Ồ không
thưa ông! Thức ăn rất ngon. Tuyệt hảo nữa.
- Nếu vậy
thì chuyện gì?
- Bởi đây
là đêm cuối.
- Tạm thời
thì thế! Nhưng anh vẫn còn gặp cô bé Galina của ta không phải sao? Và rồi
khi ta trở về, mình lại mở hội, lại vui chơi
tiệc tùng.
Edwin
cười nhưng không nói gì. Anh không biết làm sao để giải thích sự khó khăn mù mờ giữa tiền bạc và niềm tự hào.
Một
người đàn ông mảnh khảnh nước da trắng bệch
mặc chiếc áo đen ngồi vào bên cây đàn và bắt đầu chơi nhạc. Ngay tức thì,
Galina muốn ra nhảy. Cô và ông Rautenberg ôm nhau quay tròn nhè nhẹ trên sàn, một cặp không xứng đôi tí nào. Ông
Rautenberg di động với cử chỉ vụng về rất nhiệt
tâm, mồ hôi vã ra trên trán. Galina, trái
lại lướt đi và cuốn hút nhẹ nhàng như dạo
chơi. Khi quay lại bàn, cô nhìn vào Edwin thật mong đợi.
- Tôi
không biết nhảy. – Anh thì thầm. – Cô lại phải nhảy với ông Rautenberg thôi.
- Cứ thử
đi!
- Tôi
không thể mà!
- Anh
phải nhảy. Em sẽ dạy anh. Ra đi nào.
Cô kéo
tay anh, và bỗng nhiên cái kéo tay làm anh nổi giận. Cô vừa hư đốn, lại vừa
xinh đẹp. Nếu cô không hư, anh có thể tiếp tục gặp cô. Nếu không vì ông
Rautenberg đã cho họ mọi thứ, thật rộng
rãi, tử tế thì anh đã mời cô đến những nơi chỗ giải trí đơn sơ hơn. Nếu ông ta đã
không quá tốt, anh có thể phản bội ông,
sẽ cố cướp lấy người đàn bà trụy
lạc và khó nắm giữ được này từ tay ông.
Anh nhận ra mình muốn khóc, thấy
mình bỗng hoang mang, phiền lụy, mờ mịt về việc vì sao anh không thể làm điều đó.
Đêm cuối cùng bỗng trở nên buồn bã đau đớn, buồn vì một lần nữa, anh thấy mình
lại trở về với trạng thái dằn vặt khổ sở
thời thơ ấu.
- Đứng
lên nào, anh Edwin! Anh phải nhảy với em một bản.
- Hãy để
tôi yên. – Anh giật cánh tay mình ra khỏi tay Galina một cách thô bạo. Ánh mắt cô bùng lên cơn giận, và rồi, trong sự kinh ngạc của anh, thấm
đầy nước mắt.
- Tôi
thật xin lỗi… Tôi không cố ý… Tôi không biết nhảy và không muốn… Cô phải hiểu
cho. Tôi thật sự không có ý…Tôi xin lỗi Galina, xin lỗi…
- Coi nè.
– Ông Rautenberg xen vào, nhìn chăm chăm từng người một. – Coi đây, có người
mong được nhảy với em. Và không có chi thưa ông. Tôi không có gì phản đối ông mời
người bạn trẻ của tôi một bản.
Một
người đàn ông cao ốm tuổi trung niên từ
bàn bên cạnh bước qua cúi chào Galina và
ông Rautenberg. Galina cười, chớp mắt và nhìn Edwin.
- Đi đi.
– Anh nhỏ nhẹ. - Cứ ra nhảy cho vui đi.
Cô đi
ra sàn với người khách lạ và hai người đàn ông còn lại im lặng nhìn ngắm cô. Ông Rautenberg rút ra một điếu
xì gà trong hộp và bắt đầu cắt đầu điếu
thuốc.
- Anh
phải chăm sóc Galina cho tới khi tôi trở lại. – Ông nói và Edwin nhắm mắt lại
trong vài giây.
- Không
thể được.
- Sao thế? Bởi anh không có tiền chi trả cho những thứ này?
- Đó chỉ
là một phần.
- Tôi
không cần biết phần còn lại. Có mà điên
nếu anh nghĩ rằng tôi không biết gì. – Ông
đã cắt xong điếu thuốc và mất khá lâu châm lửa. Rồi ông nhìn vào đầu điếu thuốc
cháy đỏ rực.
- Tôi không biết anh sống ra sao khi không có tiền.
Nhưng dù thế nào đi nữa, anh cũng phải chăm sóc cho Galina đến khi tôi trở lại.
Nếu có thể được, tôi sẽ để tiền lại cho anh, nhưng như thế thật sai quấy, rất sai quấy, đồng ý chứ?
Khó khăn
với sự hiểu lầm, và với cảm giác chống cự
lớn dần trong tim, anh gật đầu. Ông Rautenberg rảy tàn thuốc xuống sàn.
- Tốt! Vậy
là đã hiểu nhau. Sẽ không dễ dàng cho anh. Chẳng bao giờ không có tiền mà dễ dàng cả. Tôi chỉ
hy vọng là cuộc sống đơn giản thành thật trong nghề nghiệp hoả xa của anh không bị phá
huỷ.
- Tôi…
- Có lẽ
tôi sẽ trở lại trong sáu tuần lễ. Sẽ cố gắng về sớm hơn. Cũng là vấn đề khó khăn
cho tôi. Tôi có vợ và một đứa con ở Mạc Tư Khoa. Nhưng tôi nghĩ là anh biết anh
phải chăm sóc Galina khi tôi ra đi. Tôi
nghĩ là dù tôi không bảo, anh cũng vẫn gặp cô,
có đúng thế không?
- Vâng,
tôi nghĩ thế.
- Đôi
khi ta không có quyền chọn lựa. Chỉ có một cách để đi.
- Vâng!
Ông
Rautenberg chăm chú nhìn mặt bàn, vào đôi
bàn tay mập mạp lông lá của ông:
- Anh và
tôi, giữa hai chúng ta, cô ấy có mọi thứ cô muốn. – Ông thì thầm.
Edwin
thấy tim mình đập mạnh. Anh lo sợ. Và ngay khi lo sợ, anh biết là đã quá trễ để
làm bất cứ gì. Mọi điều ông Rautenberg nói,
anh chỉ hiểu nửa vời. Đã quá muộn màng để làm bất cứ gì về điều ấy, và nó muộn
từ giây phút anh nhìn thấy lại cô trên sân
khấu Tân Thập Đế.
- Ông
không hiểu là. – Anh bỗng nhiên nói trong tuyệt vọng. - Mọi việc này thật sai trái cho tôi. Gia đình tôi, giai cấp của tôi, những người tôi biết, chắc họ nghĩ là
tôi điên rồi.
- Cả hai
chúng ta đều điên.
- Rồi
chuyện gì sẽ xảy ra?
- Chuyện
gì sẽ xảy ra? - Ông đứng dậy, và Edwin với
sự hoang mang, vừa nhận ra là Galina đã trở lại bàn. Khuôn mặt cô đỏ ửng và mọi
sự giận hờn vì sự từ chối của Edwin đã tiêu tan.
- Chuyện
sẽ xảy ra. – Ông Rautenberg vui vẻ nói. – là sau buổi tối tuyệt vời này, hai người sẽ vui vẻ ít thôi, ít vui đi bởi hai người sẽ nhớ tôi,
cho tới khi ông chú Heikki này trở lại với hai người.
- Ồ đúng
vậy, Heikki yêu quí ! Tụi em sẽ mong đợi ông trở lại, mong đợi từng
giây từng phút.
- Em có
muốn nhảy thêm một lúc nữa không?
- Tôi
nghĩ chúng ta nên đi về. – Edwin thình lình nói. Anh thấy không thể chịu đựng hơn.
– Tôi đi gọi tắc xi.
Galina
có phản đối không, anh cũng đã không nghe thấy, vì dứt lời anh đã đi ngay
ra ngoài xuống phố tìm xe. Không khí tươi
mát làm anh dịu lại một chút, nhưng cái
cảm giác choáng ngập là một trong những điều buồn khổ không chỉ cho riêng anh mà
cho cả ông Rautenberg.
Khi xe
tới, anh đã không đi chung với họ như mọi lần. Anh lang thang qua đường phố Soho, không thèm để ý đến những lời
chế giễu, mời mọc, tự hỏi nên làm gì, cảm thấy
bị sập bẫy và tuyệt vọng nhưng chẳng biết rõ cái gì bẫy anh. Về đến nhà đã gần ba giờ sáng,
và phải lên phiên làm việc sớm, thật không đủ thời gian lên giường ngủ. Nhưng
anh cũng cố nằm xuống nhắm mắt trong khoảng một tiếng. Rồi anh thức dây thay đồ đi làm. Trong cái ngăn
nắp của những kho chứa đầu máy xe, anh
thấy cảm giác khó chịu bốc hơi đi chút ít.
Anh đã
không đến với cô trong ba ngày. Khoảng ba ngày này, anh đi đến sự chấp nhận một số việc và ra kế hoạch có phương pháp cho một số việc khác. Anh chấp nhận
rằng, dù ông Rautenberg nói gì, anh vẫn phải gặp gỡ cô và gặp gỡ thường xuyên,
bởi anh không thể hình dung ra đời
anh không có mặt cô sẽ ra sao. Đôi khi, trong những giây phút man dại
nhất anh đã suy xét đến một cuộc sống cưới cô làm vợ, cùng sống chung trong một
căn nhà nhỏ ngăn nắp ở Southwark, sẽ đưa cô về làng gặp lại gia đình một lần,
như một người vợ hiền dâu thảo. Khi cái thực tế đắng chát làm tan vỡ giấc mơ,
anh cười thật chua cay và rồi quyết tâm không nhìn
tới trước, chỉ đơn giản chấp nhận là không
thể nghĩ tới cuộc đời mà không có cô ta.
Nhưng
bởi là một người mang dòng họ
Willoughby, có phần chia sẻ cái giá trị
chung của gia đình, anh biết rằng cuộc đời
hiện tại của anh phải nằm trong một số mức độ nguyên tắc định sẵn. Anh không có khả năng
chăm sóc cho Galina theo kiểu ông
Rautenberg, nhưng anh có thể có phương cách
khác kém hấp dẫn hơn. Ăn tối ở Slater
thay vì các dạ tiệc tại Cà Phê Hoàng
Gia, đi tàu thuyền dạo chơi trên sông tới
Southend
thay vì thuê tắc xi riêng tốn kém tới tận Richmond. Anh trở lại Soho và
nghiên cứu kỹ càng những món ăn bán bên
ngoài các nhà hàng. Có thể có một bữa ăn tối với giá chỉ tám xu.
Anh có thể lo liệu chi trả được với đồng
lương hiện tại, chút ít tiền tiết kiệm và
có thể chi trả đến khi ông Rautenberg quay trở lại hoặc có gì khác biến chuyển.
Và, sau ba ngày, khi anh đã có quyết định
rằng tạm thời có thể đối phó với cuộc sống
bao gồm Galina trong ấy, anh từ chỗ làm đến thẳng nơi ở của Galina ở Bayswater. Bà Keith thoáng nhìn anh với vẻ tò mò, nhưng bà vẫn
cho anh vào.
- Tôi đoán
anh muốn lên gặp cô ấy?
- Vâng,
nếu được phép, thưa bà Keith.
- Được
thôi. Anh biết đường rồi. Đã từng đến đây
nhiều lần với ông ấy mà. Cô ta đang ở
trong nhà.
Anh thừa
biết rằng bà đang nhìn anh bước lên cầu thang một cách tò mò nhưng không có ý
phê phán. Anh gõ cửa phòng khách của Galina.
Một hồi không thấy ai trả lời, anh xoay nắm
cửa gọi cô. Vẫn không có tiếng trả lời. Nhưng từ trong phòng ngủ, anh nghe có tiếng nức nở đang
cố nén lại.
-
Galina!
Anh mở
cửa phòng. Cô ta nằm một đống bèo nhèo trên giường. Lúc này trên người cô là bộ
đồ lụa trắng dơ bẩn và mái tóc rối bời.
Khi cô quay mặt lại, anh thấy cô đang khóc.
- Sao
thế Galina? Có chuyện gì vậy?
Cô vùi đầu xuống gối nói nhỏ: - Không có gì!
Kể từ
hôm gặp gỡ cuối, trí tưởng tượng của anh
có đủ loại hình ảnh của cô, nhưng cái hình dáng buồn rầu khốn khổ
như vầy không hề có. Anh bước lại gần
giường nắm nhẹ cổ tay cô.
- Có
chuyện gì Galina? Cô ốm phải không?
Những
giọt nước mắt bắt đầu lăn dài trên má, cô lại vùi đầu vào gối và bắt đầu nức nở.
-
Galina, chuyện gì? Em phải cho anh biết.
Anh đưa
tay ra choàng vai cô kéo vào ngực anh. Lúc
này cô thật nhỏ bé và mỏng manh như một chú chim non tí hon, run rẩy.
- Chuyện
gì? Làm ơn cho anh biết.
- Em thấy
quá cô độc. – Cô nức nở. - Bỗng dưng,
Heikki đã đi xa, anh cũng không có mặt. Chẳng ai đến với em cả, tới bao nhiêu ngày rồi. Em lại không có sô diễn trong hai
tuần liền. Không có nơi nào để đi, không có ai để gặp gỡ. - Cô nín lấy hơi và rồi òa khóc. – Em cô đơn quá.
- Nhưng
mới có ba ngày thôi Galina. Chỉ có ba ngày.
- Những
ba ngày trời. Với chỉ một mình em!
- Anh đâu
thể lúc nào cũng gặp em, Galina! Anh còn
công việc, anh không thể suốt ngày với
em.
- Nếu em
biết anh sẽ đến thì được. Nhưng em không biết anh có đến không? Lại không biết
tìm anh ở đâu. Không biết chỗ anh ở, nơi anh làm. Em không thể kiếm ra anh. Ồ !
Edwin…
Anh nhắm
mắt lại, cố đè nén cái cảm giác phấn khởi
đang dâng lên ào ạt trong lòng. Cô thật
nhỏ bé, run rẩy và mềm yếu. Cô bám chặt lấy anh và khóc như một đứa trẻ sợ hãi bị bỏ rơi. Anh đập
nhẹ lên mái tóc rối của cô và ru cô nhè
nhẹ trong vòng tay anh.
- Sao
em không đi ra ngoài tìm bạn bè của em? – Anh lặng lẽ hỏi.- Cái cô gì đó, Rose phải không? Cô gái hôm rồi
có đến đây đó. Còn những người bạn khác. Bạn bè trong đám nghệ sĩ của em, sao
không đến thăm họ?
- Em chẳng
có ai là bạn, Em chỉ có anh và ông Heikki…
Anh mỉm
cười:
- Thật
ngố! Galina! Em có nhiều bạn bè lắm mà.
Cô ngẩng
đầu lên ngước nhìn anh, nước mắt vẫn còn
đọng trên má.
- Không
phải đâu, anh Edwin! – Cô nói giọng khô khốc. – Em chẳng có bạn. Không bao giờ
có. Anh biết mà. Em chưa hề có bạn, chỉ có đàn ông.
Trong
thoáng giây thinh lặng. anh cảm thấy cô cứng người trong tay anh. Một phần
trong con người anh muốn đập tan cô, bóp
nghẹt hơi thở cho tới khi cô đau nỗi đau của anh. Anh không muốn nghĩ đến những
đàn ông trong đời cô. Có quá nhiều, và anh muốn nổi khùng vì cô nhắc đến họ. Phần
khác trong con người của anh, chín chắn hơn, lại thấy vô cùng tội nhgiệp cô. Cô
quá xinh đẹp, quá hấp dẫn, lôi cuốn, quá
cám dỗ. Vậy sao cô chẳng có bạn bè?
- Anh
Edwin!
Giọng
cô không còn nước mắt. lại bắt đầu mang vẻ phấn khích mạnh mẽ. Lần nữa, anh lại
cẩn trọng với sự nhỏ bé và mềm mại của cô với
thân thể anh. Rồi cô ngửa mặt lên nhìn anh,
anh không thể tin có sự thay đổi mau chóng vậy. Hàng nước mắt vừa tuôn đã biến thành những giọt
sương long lanh làm đôi mắt cô sáng rỡ.
- Edwin…
Cô choàng
tay lên cổ anh và rướn gương mặt lên tới má anh. Anh liền cảm thấy một luồng điện
kích thích mà nó luôn luôn
có khi cô đụng chạm vào người anh.
Cô bắt đầu đặt lên mặt anh những nụ hôn nhẹ nhàng, mơn trớn, nồng nàn và
thì thào:
- Anh
Edwin! Em yêu anh. Ồ ! Edwin yêu quí! Em thật yêu anh.
Thình lình
anh không còn chịu đựng nổi. Máu trong người chảy rần rật làm tim anh đập rộn rã đến không nghe rõ tiếng
cô nói và rồi bùng lên đến hoàn toàn mất kiểm soát nổi mình. Anh quên hết những
nghi ngại, những dự trù, những thận trọng
của anh. Anh quên luôn ông Heikki và tất cả những người khác trước ông ta. Và
khi cảm thấy môi cô mơn trớn bên cạnh,
anh rên lên một tiếng và đẩy cô xuống mặt gối, hân hoan trong cái cảm giác ấm áp
với thân hình nóng bỏng của cô bên trong tấm áo lụa.
(Xem
tiếp chương 12)
No comments:
Post a Comment