Chương 18
Rối ren cuộc đời
K
|
hi những mảng tuyết đầu tiên bắt đầu rơi xuống, cuộc sống của
anh và của những người còn lại trên tàu Mạc Tư Khoa II bắt đầu
thay đổi mà không hề thấy trước. Trong mấy tuần lễ cuối của mùa hè và mùa mưa theo sau, một mùa thu ngắn ngủi trên phần đất
phía bắc nước Nga, một đám thủy thủ người Nga lên tàu. Con tàu được xử dụng như một tiếp vận hạm dọc theo bờ biển
Baltic. Họ chuyên chở than đá, đôi khi máy móc
và có một lần là những thùng súng ống cổ
vừa được tìm thấy trong một xưởng quân đội cũ và được tiếp nhận thật vui
mừng để làm dịu bớt thảm trạng thiếu thốn
vũ khí trầm trọng ở chiến tuyến. Bởi vì, mặc cho sự tuyên truyền, mặc cho những hoan hô, những cờ quạt diễu hành trên đường phố, những tin tức
xấu đã lọt ra ngoài toà đại sứ Anh Quốc , qua lãnh sự quán để đến
tai thuyền trưởng Patterson. Người Nga đã
khởi đầu chiến cuộc với sự chịu đựng một tổn thất lớn, và cứ theo tin đồn, những đoàn
quân đông đảo của họ gồm toàn thành phần không chuyên nghiệp và thiếu trang bị.
Đám thủy
thủ Nga đến thay thế trên tàu Mạc Tư Khoa II đều già nua hơn đám thủy thủ Anh
Quốc, họ là những người hiền lành, dáng mập mạp, buồn bã với đôi mắt sâu thẳm và
giọng nói trầm trầm. Trông họ chẳng giống chút nào với hình ảnh ông Barshinskey
mà anh còn nhớ, nhưng cũng từ nơi họ có
một đặc tính gợi
anh nhớ về những kỳ lạ trong làng vào cái thời điểm xa xưa ấy. Anh nhận ra được những từ ngữ họ xử dụng, đôi
khi anh
cố làm ra vẻ hiểu họ , và rồi những
khuôn mặt lạnh lùng thụ động của họ vụt thoáng lên một nụ cười, cái cười dễ mến và thân mật đến nỗi làm anh lầm tưởng,
lẫn lộn chúng với những ước mơ tuổi trẻ
của anh và tình yêu của anh dành cho
Galina.
Khi
tuyết bắt đầu rơi, bọn họ rời tàu. Những
người bạn đồng tàu của anh cũng thế, từng nhóm ba bốn người ra đi. Không có việc cho họ làm vào mùa Đông
dài dằng dặc trên đất Nga. Họ bắt đầu một hành trình dài đi về nhà
qua đất Phần Lan và Thuỵ Điển. Những người tình nguyện ở lại được yêu cầu
đến trình diện viên thuyền trưởng .
Edwin giờ là một trong nhóm thủy thủ đoàn
co cụm nhất. Khi người thợ máy và viên kỹ sư phó được lệnh đi về, anh thay thế họ làm nhiệm vụ bảo trì
phòng máy và giữ lửa cho lò nhóm. Họ đóng
lại những lò chính và tháo hết nước để ngăn ngừa chuẩn bị cho mùa đông khắc nghiệt của nước
Nga.
Khi có
tuyết rơi, mỗi buổi sáng anh lên boong tàu giúp một tay xúc tuyết đổ xuống giòng
sông Neva đóng băng bên dưới, giúp đỡ thay phiên cho đầu bếp nghỉ xả hơi và
làm cho tuyết tan để lấy nước dùng. Anh lại chạy mang tin tức công văn
liên lạc giữa con tàu và thành phố. Những
tháng ngày nghiên cứu cuốn sách chỉ dẫn, những giờ phút lang thang trên đường với
Galina trong mùa hè đã giúp anh thấy tự tin
khi tìm đường tới lãnh sự quán, trạm cảnh sát Nga, các văn phòng dân sự , các
tuỳ viên thương mại. toà đại sứ…. Có nhiều việc phải làm trong cái mùa đông đầu tiên đó. Thủy thủ đoàn, ngay
cả với những người được lệnh trở về nhà cũng cần được cấp phát quần áo mùa đông đặc biệt. Họ được cung cấp những tem phiếu thực phẩm, nhưng họ
phải đi xuống đường, ra chợ ở St Peterburg tự mua lương thực cho mình.
Có những
đơn từ giấy má và các sổ thông hành tạm thời cần được sắp xếp. Một đoàn người ngoại quốc bị mắc kẹt, dù là đồng minh, trong
một số lãnh vực là cả sự rối ren lúng túng
với một guồng máy quan liêu cồng kềnh của hệ thống chính trị Sa hoàng.
Và rồi
khi mùa đông thực sự tới, ngày càng trở nên ngắn ngủi và ảm đạm hơn, càng có
nhiều người trong đoàn được lệnh trở về nhà hơn, và khi một loạt những hoạt động
đầu thời chiến đã đi vào trật tự quy củ thành thói quen hàng ngày, anh bỗng
thấy mình có nhiều thì giờ và tự do hơn. Những người còn ở lại không còn là liên
hệ giữa chủ nhân và đám công nhân nữa mà
tất cả trở nên một đám người tha hương lần
đầu tiên kinh qua sự lạ lẫm của một mùa đông
xứ Nga.
Anh cũng
thấy, vào cái mùa đông đầu tiên này, tâm hồn anh tràn ngập nỗi vui mừng , một hạnh phúc
chỉ vì phần nào có sự hiện diện của
Galina. Mùa đông ấy, thành phố giữ nguyên hình ảnh trong trí tưởng tượng của anh. Chưa khi nào anh thấy một cái lạnh như thế, cái
lạnh buốt cháy trong lỗ mũi, trong cổ họng,
nó cắt thẳng vào da thịt anh dù đã được che chở bằng lớp quần áo đặc biệt. Anh đã
từng biết đến những mùa đông tệ hại ở vùng Kent quê nhà của anh, nhưng chúng sẽ
chỉ là một trò chơi mát mẻ so sánh với
lượng tuyết khổng lồ đổ xuống, với gió thổi ào ạt và băng đá bao phủ toàn thành phố ở
đây.
Khi ánh
bình minh muộn màng với làn ánh sáng xám
xịt mỏng manh xuất hiện mờ mờ từ phía đông, anh bước lên boong tàu lặng lẽ nhìn những
con tàu kẹt cứng trong băng đá, thỉnh thoảng
có sự di chuyển xà quầy của chiếc
tàu phá bang. Những kho hàng, cần cẩu, cầu tàu tất cả phủ một màu trắng xoá. Những
hình dạng người và xe cộ đen ngòm thấy
được di động qua làn tuyết trắng trông
như lũ kiến. Vài người quét đường lùm xùm trong bộ đồ dầy cộm xám xịt đang cố dọn
dẹp trên đường đám tuyết vừa rơi qua đêm.
Anh thích nhất vào lúc trời sáng tinh mơ khi tuyết rơi chưa được quét dọn, Và
khi đi vào thành phố chạy việc cho tàu,
anh thấy vui thích với những đợt gió mạnh làm tuyết rơi như mưa vào người khi anh quẹo qua một góc phố.
Khi trời
tối, thời tiết càng lạnh hơn. Lạnh đến nỗi những đèn đường dọc theo bến tàu dường
như chiếu ra những tia sáng có chứa
tinh chất giòn giã và lóng lánh như kim tuyến, dường như sương lạnh ở một âm độ cao hơn , có thể tan vỡ thành từng mảnh.
Anh thật
kinh ngạc với sự chịu đựng bền bỉ của dân
buôn bán ở St Peterburg. Họ đứng trên vỉa hè ướt át, giữa những đống tuyết mới cào, vẫn ào ạt rao bán hàng hoá của họ: bánh mì đen, quần
áo cũ, sữa tươi hoặc những mảnh cá mòi muối gói trong giấy báo cũ.
Trong
cái mùa đông đầu tiên này, không có phần nào của thành phố không quyến rũ anh,
ngay cả ở phía Viborg chán phèo với hãng xưởng và những khu nhà cho thuê cũng mang một tính chất bí mật khi sự nghèo nàn của nó
cũng được tuyết trắng che lấp.
Dĩ nhiên
anh có cơ hội gặp Galina rất nhiều. Nhưng như một điều lệ bất thành văn trên tàu
rằng mọi người phải cùng gắn bó với nhau, và không ai được vắng mặt quá lâu, những
cuộc gặp gỡ Galina của anh giảm thiểu xuống thời hạn
không hơn hai, ba tiếng đồng hồ một lần. Mùa đông ấy, ông Heikki chỉ đến
có bốn lần. Với sự lo lắng cho công việc của ông, được đặt bản doanh tại Mạc Tư
Khoa, đã có một sự cạnh tranh mới do hậu
quả của chiến tranh. Những thị trường cũ đã đóng cửa, nhưng chính quyền sẵn sàng
mua bất cứ gì họ cần và trả giá cao. Ông
ta không thể nào rời bỏ công việc làm ăn
của mình. Ngay chiến tranh dường như cũng
đứng về phía những người yêu nhau.
Thỉnh
thoảng, trong những chuyến đi chớp nhoáng vào thành phố, anh có nhìn thấy cô, thoáng bắt gặp lối sống riêng tư của
cô . Có một lần, anh thấy cô vào một tiệm cà phê ở Mikhailovskaya với một người
đàn bà khác. Họ bước xuống một chiếc xe một ngựa, cười nói vui vẻ, khuôn mặt đỏ bừng vì gió lạnh trông thật trẻ trung và đáng yêu trong lớp nón áo có viền lông thú. Lại một lần khác ở trong
Gostiny Dvor cũng với cùng cô gái ấy, anh ngừng lại và chờ đợi cho họ nhìn thấy
anh. Cô cười thật vui vẻ và giới thiệu
anh với Lizka, một nữ ca sĩ ở phòng trà Carcade. Dường như cô đã tạo được một
nhóm bạn bè, những người quen biết, tương tự như những người cô có ở Luân Đôn:
vài nghệ sĩ ở những nhà hát không lớn lắm,
một bà trung niên và cô con gái làm chủ một quán bán trà ở đầu phố Nevsky không hợp thời trang lắm, một
người dạy dương cầm, một ông lưng hơi gù có dáng tật nguyền sở hữu một căn hộ ở
đảo Vasilevsky.
Anh cũng
chút đỉnh hòa nhập vào cái thế giới thu nhỏ lại của cô. Một buổi dạ tiệc nho nhỏ ở nơi trú ngụ của Lizka, chầu cà phê sáng
trong phòng của ông thầy dạy piano. Họ là những người chỉ nói chuyện tầm phào
vui vẻ và ra vẻ không chú ý nhiều đến
chiến tranh, mặc cho sự thiếu thốn. Họ tiêu khiển thì giờ đi mua sắm, ngồi trong quán tán gẫu về tình ái lăng nhăng của bạn bè. Anh nghĩ là mình
không bắt buộc phải tán dương tất cả bọn
họ, đúng là một đám ong bướm vô dụng. Nhưng như loài
bướm, họ đều quyến rũ và vô hại, và anh
không thể nào kềm lòng mà khônng ưa họ.
Vào mùa
đông, khi đến mùa các vũ trường nhà hát
mở cửa trở lại, Lizka giới thiệu Galina cho một giám đốc phòng trà, từ đó cô được xuất hiện không đều đặn lắm như một vũ công
đột xuất. Đời sống cô gần như rơi vào cùng
khuôn mẫu với cuộc sống tại Luân Đôn.
Rất thường,
khi anh đến gõ cửa phòng cô trên đường Borovaya, cô không có ở nhà. Nhưng sự liên lạc không đều đặn của họ , cách nào đó, giờ lại tăng thêm cường độ kích thích, bởi hai
người biết họ đang ở cùng một thành phố, và sẽ chẳng phải chờ đợi lâu hơn một vài ngày trước khi họ sẽ lại gặp nhau.
Mùa đông
đó, anh thấy mình quả thực đã là một công dân của St Peterburg: Có một nơi chốn đi về trong thành phố. Anh biết dân cư, không nhiều lắm, nhưng đủ để không còn nghĩ mình là
một khách lạ. Anh thấy tự hào vì chẳng hề
lúng túng với kích thước và sự xa lạ của cái thành phố lớn lao này. Suốt
mùa đông, anh cảm thấy một niềm vui sướng dâng đầy, một cảm nhận rằng tất cả những
điều này sẽ lên tới đỉnh cao của một hạnh phúc bùng nổ. Một cảm giác
thân tình. Cái cảm giác anh đã từng có
nhiều năm trước, khi đứng bên cửa sổ trong phòng ngủ ngắm nhìn Galina múa hát quanh đống lửa. Cảm giác ấy bây giờ trở lại,
nhưng mãnh liệt hơn, vững chắc hơn, cái
chắc chắn về sự thực hiện một ước mơ hoàn toàn và đích thực không còn xa xôi quá.
Giây
phút đã đến nhưng anh đã không nhận ra nó
như là đỉnh điểm của mùa đông của anh cho tới khi nó đã qua đi. Anh đi băng qua cây cầu Nikolaievski vào một buổi
sáng cuối tháng Tư, có điều gì khác lạ
giữa làn gió nhẹ, giữa bầu trời xanh làm anh ngưng lại và nhìn xuống
băng đá. Và khi anh nhìn vào đó, có tiếng kêu lách tách nhẹ như tiếng súng
lục nhỏ và lớp băng bắt đầu rung chuyển. Những kẽ nứt mở lớn ra, và như một kỳ
tích, dòng sông băng đá lay động, và bắt
đầu nổi phồng lên quanh thành cầu. Mặt trời nhô lên trên nền trời xanh nhạt phản chiếu vào mặt băng đá và dòng sông
tạo thành những vảy bạc lấp lánh chói loà. Khi
đang ngắm nhìn cảnh tượng trên, anh nghe tiếng hai cô gái trò chuyện ở phía sau và bất ngờ khám
phá mình có thể hiểu họ nói gì, không
chi tiết lắm, nhưng âm thanh và giọng điệu
trầm bổng thường vẫn gây trở ngại cho anh, bây giờ bỗng nhiên rất quen thuộc. Họ
đang nói về mùa xuân. Mùa xuân vừa đến, một cô nói. mặc dù anh vẫn chưa phân tích
được ngữ pháp hay tự tạo được một câu
nguyên vẹn. Anh quay đầu lại nhìn họ, và vì quá vui sướng anh mỉm cười và họ cũng
mỉm cười với anh.
- Thật là
tốt! - Họ nói. - Cuối cùng, mùa xuân đã
đến. Tuần tới, băng sẽ tan hết và chiến
tranh rồi cũng sớm kết thúc.
- Đúng thế.
– Anh nói . – Mùa xuân.
Các cô
gái đưa bàn tay đeo găng lên vẫy tạm biệt và vội vã bỏ đi, để lộ những đôi ủng dưới gấu chiếc áo choàng màu xám.
- Mùa
xuân đã đến. – Anh tự nói bằng tiếng Nga, lập lại y hệt những lời hai cô gái mới
nói. – Mùa xuân đã đến, và tôi đang sung sướng hơn bao giờ hết trong đời.
Khi cây cối
bắt đầu đâm chồi và những chiếc xe tuyết do ngựa kéo biến mất trên đường phố, bầu không khí
trong St Peterburg, thành phố giờ đã có tên mới Petrograd, cũng bắt đầu thay đổi. Nó phải trở nên tốt hơn. Mùa đông
dài tăm tối đã qua, người dân thành phố đổ ra đường đi dạo mát trong vườn, nhưng vẫn có một sắc thái u buồn bao phủ thành
phố. Cho dù anh không quen biết những công dân
đích thực ( anh không coi Galina và đám bạn bè thấp hèn vây quanh cô là những người Nga điển hình),
anh vẫn có thể cảm nhận được cái sự buồn
rầu và phẫn nộ thay thế chỗ cho nhiệt tình yêu nước và tôn giáo . Màu đen tang tóc thấy khắp nơi ở trên thân thể những người đàn bà, trong mọi bước đi của cuộc đời.
Rồi một
buổi sáng, khi băng qua kinh đào Fontaka, anh nhìn thấy một người lính trên đôi
nạng gỗ, một ống quần sắn cột lên chỗ chân bị cưa mất. Sau đó anh nhìn thấy ngày
càng nhiều hơn những thương binh trên đường phố. Anh nghe được tin tức từ một ngưòi thư ký
trong lãnh sự quán cho hay tất cả những cứ
điểm quân Nga đạt được tại tiền tuyến vào
mùa đông đã bị đẩy lui và những đoàn quân Đức – Áo đã tràn qua Galicia. Anh cũng thấy lúc này phải chờ lâu hơn trong việc xếp hàng mua thực
phẩm và nhiều ngày đến cả bánh mì cũng
không có. Càng ngày anh càng bị đẩy gần hơn về phía Viborg nghèo nàn. Chỉ cần đi dọc theo phố xá anh có thể cảm nhận được tâm
trạng của thành phố. Chỉ cần nhìn khuôn mặt của đám công nhân, anh có thể thấy sự lo âu của mọi người.
Anh bây
giờ là thủy thủ cơ hữu duy nhất còn ở trên
tàu, cùng với hai tay thủy thủ trên
boong chịu trách nhiệm giữ tàu. Khi mùa hè tới,
chuyện rõ ràng là thuyền trưởng và viên kỹ sư cơ khí trưởng, ông
Bathgate, hai người nói tiếng Nga trôi chảy, đang làm một chuyện gì đó có vẻ bí mật. Có những lúc Edwin được
sai đi thuê mướn một chiếc tắc xi và ba
người lái tới ngân hàng Nga và Anh toạ lạc ở Nevsky, rồi họ quay lại tàu với một hộp sắt
an toàn đặt giữa chỗ hai người ngồi. Sau nhiều tuần lễ,
anh nhận ra là hai ông xếp của anh đang
cất giấu đủ loại các hồ sơ an ninh của Anh Quốc và những tài vật của cải ở nhiều chỗ giấu khắp trong và ngoài thành phố.
Chúng có được mang chui ra khỏi đất Nga
hay chỉ tạm giấu trong thời chiến, anh không biết, nhưng khi thấy điều họ làm,
bởi anh đã bắt đầu yêu thích cái thành phố này ,anh thấy hơi buồn vì rõ ràng chính quyền nước Anh chỉ có rất ít, hay
không còn tin tưởng nước Nga sẽ
có bất cứ cơ may thắng trận nào.
Rồi đến
một đêm tháng Bẩy, một đêm trời trắng một màn sương lộng lẫy, khi ánh sáng mặt
trời không bao giờ thực sự tan biến, anh
và viên kỹ sư trưởng hai người đi giao một món đồ mà ông ta gọi đùa là ‘ một gói trà nhỏ của chúng ta’ đến một tòa nhà ở Zadovskaya.
- Chúng
ta sẽ cuốc bộ về, Willoughby ạ!. – Viên xếp nói khi hai người đứng ở ngoài lề
đường và trong một trạng thái thảnh thơi
đột xuất, hai người thơ thẩn đi về phía cầu Nikolaevski. Khi họ đến gần nhà hàng
Old Donon, một đám đông các sĩ quan trẻ
từ học viện Tham Mưu Đế Quốc tràn ra khỏi
cổng. Họ đã uống say, ồn ào và bát nháo
đến náo loạn cả một góc đường. Edwin và ông
xếp kỹ sư đứng lại chờ cho bọn họ phân tán. Lại có hai người đàn bà từ trong nhà hàng bước ra, nói cười ồn ào không kém gì đám sĩ quan trẻ , và rồi họ bị
hai người trong đám kéo ôm vào lòng. Chuyện xảy ra thật nhanh thật gọn đến nỗi Edwin không thể ngờ làm cho anh từ chỗ
chỉ thoáng nhìn qua đến sững sờ. Trong phút chốc, anh chú ý đến người
đàn bà mặc chiếc áo khoác màu đỏ tươi có cổ màu cát vàng đang được một tên tóc hoe ôm hôn và cô cũng đáp ứng hôn lại. Rồi bỗng nhiên như
không thể tin vào mắt mình, anh thấy người đàn bà đó chính là Galina. Anh nhào
tới, không thể thấy gì ngoại trừ gương mặt của cô ngước lên sát bộ ria vàng.
- Khoan
đã, anh bạn trẻ. Chúng ta không muốn tự gây chú
ý chứ, phải không?
Cánh
tay anh bị một bàn tay cứng như sắt nắm chặt. Anh giận dữ vùng giật ra . Một trận
ghen tuông giận ghét vì bị phản bội làm
anh lao thẳng vào đám đông, dùng hết sức mạnh
thúc cùi chỏ đẩy những anh chàng say rượu dạt qua hai bên.
-
Willoughby, ngừng lại ngay!
Anh
nghe nhưng không để vào tai. Chộp lấy
vai anh chàng sĩ quan có râu mép trẻ
xoay một vòng và nắm tay đấm một quả như trời giáng.
-
Edwin. – Anh nghe tiếng cô gào lên, rồi
đến phiên anh bị đấm lại và ngã xuống với cùng một loạt cú đánh hội đồng
khắp mặt mũi cơ thể và thấy hai cánh tay
bị bẻ quặt ra phía sau lưng. Người kỹ sư
trưởng bắt đầu nói bằng tiếng Nga thật nhanh và lưu loát. Galina nhìn anh, mặt
cô trắng bệch ra và một bàn tay đeo găng đưa lên che miệng.
- Cô là
con đĩ. – Anh khạc xuống đất. - Đồ con đĩ
thối tha.
-
Edwin! - Cô bắt đầu khóc , và người
đàn bà kia, anh nhận ra là Lizka, vòng tay ôm cô dìu đi trong tiếng nức nở. Dường như có một đám
lửa rực đỏ trước mắt anh và chỉ khi Galina đã
đi khuất vào góc đường, cái màu đỏ ấy mới tan đi. Anh có thể nghe thấy
từ xa xa, ông xếp của anh đang xin lỗi,
giải thích và tìm cách giảng hoà. Bọn sĩ
quan trẻ đang say khướt
và ngổ ngáo.
-
Willoughby, cậu phải xin lỗi họ ngay. – Ông xếp kỹ sư thúc giục.
- Không.
- Cậu
không có quyền chọn lựa . Tôi ra lệnh cậu
phải xin lỗi ngay lập tức. Tôi đây đại
diện cho chính phủ nước Anh, và ở một mức độ thấp hơn, cậu cũng thế. Chuyện cá
nhân của cậu không có chỗ ở đây. Cậu đang biểu hiện một hành vi nguy hiểm và không
đàng hoàng.
Như có
giọt đắng trong lòng, anh hít một hơi dài cố trấn tĩnh mình.
- Tôi xin
lỗi. – Anh nói một cách vô cảm bằng thứ
tiếng Nga tồi. - Chỉ là sự hiểu lầm.
Ông xếp
lại một lần nữa bắt đầu giải thích cà kê
dê ngỗng thật dài dòng. Edwin
đoán rằng ông đang nói về một điều gì đó có vẻ giễu cợt về đám trai trẻ
thiếu kinh nghiệm với đàn bà. Chuyện đó làm cơn giận dữ của anh vụt trở lại, lần này, với ông xếp kỹ sư của
anh. Rồi đám sĩ quan trẻ bỗng đổi giận
làm vui. Một tay còn cười ha hả. Tên có
bộ ria mép vàng chùi máu chảy ở khoé miệng và khó nhọc cúi chào , không phải Edwin mà là ông xếp.
Edwin
lại thấy cánh tay bị nắm chặt đẩy tới phía trước, đi về hướng bờ sông. Hai người
yên lặng đi rảo qua những con đường trở về bến tàu. Khi cơn giận đã hạ nhiệt, anh thấy muốn bịnh, bịnh và đau khổ. Thật là không
hiểu được. Thì ra mọi thứ chỉ là dối trá sao? Chắc là cô ta cười nhạo mình lắm?
Nhưng sao cô ta lại bận tâm thế? Sao cô lại nằng nặc van nài mình tới đây? Sao vậy? Một
làn sóng ghen ghét giận dữ lại tràn ngập hồn anh. Chắc phải giết chết cô ta quá!
-
Willoughby! Tạm thời anh hãy tự
giam mình trên tàu. - Giọng nói lạnh lùng bên cạnh anh. - Theo nguyên tắc, tôi phải báo cáo chuyện này với thuyền trưởng. Ngay lúc này, tôi
không biết có thể chuyển anh về lại Anh Quốc hay không. Chúng tôi giữ anh lại vì anh tình nguyện và vì
nghĩ anh khá thông minh và có tay nghề.
Nhưng dường như chúng tôi đã lầm.
- Tôi
xin lỗi xếp!
- Tôi đề
nghị anh về phòng nghỉ nhìn lại mình trong gương coi. Cặp mắt anh toé ra đầy những
tia máu kìa.
Anh cứ
tưởng những ý tưởng hận thù chỉ ở trong trí, nhưng giờ mới nhận ra chúng phát ra cả ở sắc diện bên ngoài.
- Tôi chỉ
có thể nói tôi xin lỗi, thưa xếp!
- Người
đàn bà đó là ai vậy?
- Cô ta
là… cô là người …tôi muốn cưới làm vợ.
- Một cô
gái Nga?
- Không phải. Ít ra là trong dòng máu . Cô ta sinh trưởng ở bên Anh. Tôi biết cô từ hồi
hai đứa còn nhỏ. Cô sống trong cùng một làng với tôi. (Đồ đĩ. Một con đĩ nhơ bẩn. Nhưng
bộ mày không biết nó là một con đĩ sao? Còn nhớ ông Hope-Browne chứ? Và ông
thầy giảng du hành? Sao mày cứ phải giả vờ cô ta khác biệt? Chúa ơi! Sao mày để
cho mình yêu cô? Sao mày để cô ta luồn lách khỏi vòng kiểm soát của mày. Cô ta
chỉ là một con điếm.)
- Ra thế!
Anh cứ ở lại trên tàu cho tới khi tôi nói chuyện với thuyền trưởng xong.
Lờ mờ
anh nhận thấy mình có lẽ đang gặp rắc rối, nhưng ngay lúc này anh không thể nghĩ gì khác ngoài
sự đau đớn trong lòng và rối loạn trong tâm trí.
Anh bị
phạt cấm rời khỏi tàu trong nhiều tuần lễ
nhưng anh chẳng bận tâm. Hết nấu nướng thì kỳ cọ, đánh bóng sàn tàu, và vô dầu mỡ
từng bộ phận của máy, cố làm tất
cả mọi việc để khỏi phát điên. Rồi anh được gọi lên trình diện
viên thuyền trưởng. Ông ta giận dữ:
- Willoughby!
Anh biết rất rõ là ông Bathgate và tôi đã
đang làm gì trong mấy tháng vừa qua. Đó
không phải là bất hợp pháp, mà chỉ là những
thứ chúng ta không muốn được công khai hoá. Nếu giới chức nước Nga nhận ra rằng
chính quyền Anh Quốc có rất ít sự tín
nhiệm với viễn ảnh chiến thắng của nước
họ, thì chúng ta sẽ ở trong tình trạng khó khăn bối rối. Chúng tôi để anh giúp bởi anh ra vẻ trông cậy
được và kín miệng và bởi anh biết một chút
tiếng Nga . Anh có vẻ không ở trong tầng lớp những người khác trong đoàn
thủy thủ và ra vẻ tự chủ. Nhưng rõ ràng chúng tôi đã đánh giá sai về anh. Lúc này
tôi không thể chuyển anh về nhà. Chúng ta đã
giảm người đến mức tối thiểu và
không thể giảm đi hơn nữa. Tôi sẽ liên lạc với Edinburg để xem họ có đề nghị dự
phòng nào khác không. Dù sao, anh cũng đã làm chúng tôi quá thất vọng.
- Tôi
xin lỗi, thưa thuyền trưởng. Chuyện đó sẽ không xảy ra nữa. Đây chỉ là một trường hợp…bất bình thường.
- Vì thế
tôi tin. Tôi đoán đó là lý do vì sao
anh xin vào làm ở đường vận chuyển này. Chỉ vì người đàn bà đó.
- Đúng vậy,
thưa thuyền trưởng.
- Nếu tôi
biết, tôi đã từ chối cho anh làm việc trên
tàu này.
- Dạ thưa
thuyền trưởng!
Buổi
trình diện kết thúc. Anh thấy nhục nhã. Anh cố xua đuổi hình bóng cô ra khỏi tâm
tưởng, khỏi trí óc, nhưng khi đêm về nằm
trên giường trong bóng tối, lại trăn trở với những câu hỏi “vì sao”, những mường
tượng “nếu mà”.
Cuối cùng,
họ vẫn phải xử dụng anh chạy việc quanh
thành phố. Hai người thủy thủ sàn tàu kia họ
chỉ nói được ít tiếng Nga ‘bồi’, và dĩ nhiên không thể nào hai viên xếp
thuyền trưởng và kỹ sư trưởng lại đi làm người chạy công văn cho chính phủ cũng như đứng xếp hàng nhận lãnh thực phẩm và
đứng chờ đợi trong các văn phòng nhà nước,
các trạm cảnh sát để xin giấy phép hay xin phiếu lương thực. Edwin lại phải tiếp tục đi ra đường phố
Petrograd, lúc nào cũng nơm nớp e là gặp
gỡ Galina, sợ hãi mỗi khi
rẽ vào một góc phố với sự chạm trán cô ta. Nhưng khi không gặp cô,
anh lại có cảm giác mất mát, trống vắng tronng tim rằng chuyện tình của họ đã
qua, và trong suốt quãng đời còn lại này, anh chẳng bao giờ hiểu vì sao cô đã
phản bội anh.
Dường
như phản ảnh theo đời sống cá nhân anh, điều kiện sống trong thành phố bỗng trở nên tồi tệ hơn.
Tất cả các loại thực phẩm đều khan hiếm. Trong
mùa đông, anh đã dự phòng bằng cách mua một số bao đậu khô, và với số lượng
súc sích dự trữ đủ cho họ sống với chế độ ăn uống dè xẻn. Có hôm, họ đã không có bánh mì để ăn trong nhiều
ngày, anh được chỉ tới bộ phận nhà bếp của
đại sứ quán và người ta phân phát cho anh một bao bột mì và một hộp bơ. Người phu tải hàng là một cựu thượng
sĩ trong đội khinh binh là người tử tế
mà Edwin quen biết được. Ông ta cho anh
biết quân Nga đang ở trong một tình thế nghiêm trọng, và bọn Đức đã tiến tới bên ngoài thành phố Warsaw. Nếu cuộc tiến quân của
bọn chúng tiếp tục theo cùng tốc độ, chẳng
bao lâu nữa Petrograd sẽ gặp nguy hiểm . Phiền muộn, anh trở về tàu thì đưọc biết
anh chàng McKenzie, một trong hai thủy thủ sàn tàu bị vướng dịch tả. Thuyền trưởng
Patterson vừa lo âu vừa giận dữ. Và sự
giận dữ của ông với anh chàng McKenzie đang
suy nhược vô hình chung làm cho Edwin lấy lại được một chút cảm tình của ông.
- Tôi đã
ra lệnh nghiêm ngặt là không được uống nước chưa được nấu sôi trước.
Trên tàu không thể có nước dơ. Vậy
là anh ta đã bất tuân thượng lệnh và uống nước trên bờ. Willoughby, anh phải đi báo cáo với lãnh sự quán,
rồi làm cho xong bất cứ thủ tục giấy tờ gì họ trao để xin vào bệnh viện Alexander, và xếp đặt cho
anh ta nhập viện. Bác sĩ đã khám qua rồi, chắc chắn đó là dịch tả.
Khi rời
bến tàu và chân thấp chân cao đi ngang
qua giòng sông, anh nhìn thấy một người đàn bà tiến về phía anh, một phụ nữ Nga
mà anh ngờ ngợ đã gặp đâu đó. Bà ta bận một áo khoác màu đen, váy và khăn choàng
bạc thếc h chứng tỏ thuộc loại dân nghèo,
nhưng trông bà gọn gàng sạch sẽ và chân lại đi giày bằng da. Khi thấy anh, bà ta
ngưng lại.
-
‘Gospodin’! (Thưa ông?). - Bà thọc
tay vào túi áo khoác lấy ra một bao thư. Và khi
anh nhìn thấy hàng chữ viết tay to tổ bố như chữ con nít mới đi học: Ông Wilerby, SS Mạc Tư Khoa, anh nhớ ra ngay người đàn bà đó là ai.
- Bà
Yelena phải không ? – Anh hỏi.
- Phải,
thưa ông. - Đây chính là người đàn bà vẫn
đến căn hộ Galina đang sống để dọn dẹp vệ sinh và mua sắm cho cô. Anh nhìn chăm
chăm vào lá thư, tim đập thình thịch,
mong mình có đủ can đảm và phẩm cách xé toạc lá thư trước mặt người đầy
tớ này để bà ta về nói lại với Galina,
nhưng bất thần bà ta quay lưng vội vã bỏ đi về phía đại lộ. Anh cũng không cố gọi bà quay lại. Lá thư viết nguyệch ngoạc đầy lỗi chính tả và lấm lem mực.
Edwin iêu rấu,
Em biếc em xai dồi và em sin lỗi. Em đang ốm lặng lắm. Anh lói anh iêu em dù em có nàm bất cứ rì, anh còn nhớ
không? Đừng bỏ em. Đừng bỏ em. Em ốm lặng lắm và em chẳng có ai. Heikki có đến
nhưng em no sợ không rám lói với ông nà em ốm. Lếu anh không đến, em không biếc
phải nàm rì. Em iêu anh nhiều Edwin
Galina
Barshinskaya
Không
bao giờ có một giây phút nghi ngại rằng anh rồi sẽ đến với cô. Anh không biết
gì về cảm giác anh dành cho cô nữa. Tuy nhiên
cái ý tưởng vụt lóe lên lúc này là
anh phải đến với cô ngay. Nếu nhanh chân, anh có thể đến lãnh sự quán và qua bệnh viện, sau đó ghé qua nhà Galina một
chút trước khi viên thuyền trưởng nhận
ra được thời gian anh đi bao lâu.
Ở trạm
xe điện là một dãy người đứng nối đuôi đợi xe mà không thấy chiếc xe điện nào. Nóng lòng,
anh vẫy gọi một chiếc xe ngựa và hối hả
nhảy lên. Anh muốn đến với cô ngay tức
khắc, nhưng biết là không thể nào. Trong suốt thời gian điền vào những tờ đơn
tưởng như vô tận ở lãnh sự quán, và sự chờ đợi còn lâu dài hơn ở bệnh viện, đầu
óc anh cứ lẩn quẩn với câu hỏi cô ấy bị
gì. Có phải đang bị nhiễm dịch tả không? Liêu cô đang hấp hối? Mình đã tha thứ
cho cô ấy chưa? Anh không biết. Cứ mỗi lần nhớ đến cảnh cô nhón gót chân lên để hôn cái tên sĩ quan say rượu hôm ấy, anh biết mình
không thể nào tha thứ cho cô, nhưng anh
phải đến với cô.
Cuối cùng,
công việc ở bệnh viện cũng đã xong, nhìn thấy chiếc xe cứu thương đã lăn bánh đi mang McKenzie vào viện, anh nhảy
ngay lên một chiếc tắc xi đến thẳng đường Borovaya. Suốt con đường, tâm trí anh
hỗn loạn. Đằng sau sự hỗn loạn là một nỗi buồn rầu đau khổ nặng nề. Chẳng lẽ
anh không bao giờ thoát ra khỏi sức quyến rũ của cô?
Bà
Yelena ra mở cửa, anh lấn qua bà ta, vội vã đi vào phòng ngủ.
-
Edwin? Ồ Đúng là anh Edwin. – Cô bắt đầu khóc. Nước da mang màu vàng tái và tóc tai xồ xề xõa xuống đôi vai, trông cô yếu ớt và buồn bã. Anh muốn
ôm ngay cô vào lòng cùng khóc với cô, nhưng bỗng nhiên hình ảnh tên sĩ quan say
rượu loé lên trong trí làm anh ngưng lại.
- Có
chuyện gì?
- Ô! Anh
Edwin, đừng giận em như vậy. Em xin lỗi, thật tình xin lỗi. Nhưng em đang bệnh
hoạn, cô đơn và sợ hãi lắm. Anh Edwin ơi! chắc em chết quá? Em không muốn chết ở
đây một mình.
Trông
cô lúc này thật đơn sơ và mỏng manh làm cho đôi mắt trở nên thật to. Kể từ lần gặp cuối đến nay, cô đã sụt đi nhiều
ký thấy rõ, và khi tiến tới gần giường, anh thấy từ con người cô toát ra một mùi khó chịu.
- Anh
Edwin, làm ơn… - Cô nức nở và đưa hai nắm
tay lên chà mắt như một đứa trẻ. - Em sẽ
chết. – Cô giật người lên. – Em biết em sẽ chết. – Cô đưa tay ra nắm lấy tay
anh. Lúc này cô thật là nhỏ bé, bệnh hoạn
và thảm thương. Dù sao anh đã hy vọng cô thế nào cũng lôi kéo cho sự tha thứ của anh, nhưng cái con người hèn
hạ này thật quá mức. Anh ngồi xuống cạnh giường với tiếng thở dài.
- Có
chuyện gì với cô vậy? - Giọng anh đã dịu dàng hơn.
-
Edwin! – Cô sụt sùi. - Xin anh nói
anh tha thứ cho em đi! Xin anh hãy tha thứ. Em không có ý đi với bọn họ. Chỉ là
vì suốt ngày chẳng có gì làm trong căn phòng này. Heikki đã lâu không đến. Còn anh lúc nào cũng chỉ đến trong chốc lát… - Cô ngưng lại lấy thêm hơi
sức. - Em rất cô đơn, rồi Lizka tới rủ rê nói là đi ra
ngoài chơi sau buổi trình diễn vui lắm.
Em không có ý phản bội anh, anh Edwin! Em không có ý đó.
- Không
phải cô đã từng… đi với bọn họ trước đó? – Anh hỏi.
- Không
, không hề có, Em xin thề là không có.
- Thằng
Mackenzie trên tàu tôi có nhìn thấy cô với đám sĩ quan Nga trước đây. – Anh nói
dối, tự hận mình sao dám đưa cô vào bẫy, nhưng không thể kiềm chế nổi một sự đồi bại hiện lên trong trí.
- Chỉ có
vài lần thôi! Chỉ khi nào em thấy cô đơn sợ hãi… - Cô bật khóc tức tưởi và đổ sụm
xuống mặt gối. - Chỉ có anh là người em
yêu. Em chỉ cần anh, anh Edwin! Phải chi
anh luôn luôn ở mãi bên em.
Một trạng thái
thêm đau buồn thêm tuyệt vọng chiếm
hữu tâm hồn anh. Cô ta đang lừa dối.
Ồ, nhưng không phải vì không yêu anh. Cô yêu anh theo cách thức trái luân thường đạo
lý của cô, không giống như anh yêu cô với
cả sự đắm say bùng cháy lên thành
nỗi ám ảnh. Yêu cô, anh sẽ chẳng bao giờ đi hôn một người đàn bà khác hay ngay cả chỉ bỏ ra một buổi chiều lang thang với
họ.
- Ô!
Galina! – Anh thầm thì. - Em có biết em đã
làm gì đối với anh? Em có biết em đã tàn
phá đời anh như thế nào không? Em có bao giờ
suy nghĩ về những điều em đã làm với những người đàn ông đi qua đời em và
rồi em bỏ rơi không cần biết tới? Có bao giờ em nghĩ đến ông Hope-Browne? Thời đó
em còn quá trẻ và có lẽ không biết mình đã làm gì, nhưng có bao giờ em nghĩ về ông Hope-Browne và đã huỷ diệt ông ra sao không?
Cô ta
dường như co rúm người lại , trông càng nhỏ bé hơn trên giường.
- Còn
chuyện gì xảy ra với những người khác? Ông thày giảng và những người đàn ông
sau đó? Ai là người đã dạy em múa hát trên sân khấu? Chuyện gì xảy ra cho ông
ta? Em có biết những gì em làm không? Em có bao giờ nghĩ đến những cuộc đời đã bị
em làm tan nát?
Cô ngước
lên nhìn anh với ánh mắt mở to, hai hàng
nước mắt từ từ lăn trên má.
- Em
không bao giờ có ý đó. – Cô thì thào. -
Em không có ý làm thương tổn
Hope-Browne, cả anh, cả ông Heikki. Ông ấy có đến thăm em. Có người đồn
thổi đến tai bà vợ ông ta về em. Bây giờ
bà ấy không cho ông gặp gỡ đứa con trai. Ông ta đã phải hứa với bà vợ không bao
giờ gặp lại em nữa, bà ấy mới cho gặp con. Ông có để lại cho em ít tiền cùng với
căn hộ này ở bao lâu cũng được. Ông ấy đã
khóc khi xa em. Ông nói là ước chi ông rời
xa vợ ông được để cưới em, nhưng không thể được vì người bố vợ của ông sở hữu
phần lớn công việc làm ăn. Khi bà
vợ ông biết ông ấy đi lại với em, bà đã
toan tự tử. Ông nói lúc này bà ấy
chưa hồi phục…
Anh đăm
đăm nhìn cô, không thể nào hiểu được một
con người nhỏ bé, vừa không tự bảo
vệ được, vừa bất tài vô dụng như cô lại
có thành tích hủy diệt ghê gớm thế.
Anh nghĩ đến người đàn ông lùn mập đáng buồn và kỳ lạ nhưng lại rất
rộng rãi. Ông Heikki coi như đã tiêu đời,
nhưng anh chẳng cảm thấy một chút vui mừng
nào của kẻ chiến thắng, chỉ có lòng thương hại cho người lái buôn Phần Lan này,
bằng cách nào đó phải tự hàn gắn những mảnh
đời vỡ nát của mình lại với nhau lần nữa.
- Bộ ông
ta không khuyên em trở về Anh sao? - Anh hỏi.
- Em
không về được. Lúc này đã quá đau ốm.
- Em bịnh
hoạn ra sao?
- Em sắp có con. Nhưng giờ đã hư thai , và máu cứ ra dầm dề. Mỗi khi em đứng lên là
máu lại chảy.
Anh tưởng
như có ai đá vào bụng mình một cú. Thật
sốc khi nghe cô nói chuyện ấy chẳng chút ngập ngừng trở ngại.. Theo quan niệm của anh, đàn bà không bao giờ nên nói những chuyện ấy ra, huống chi lại còn
nói với sự rõ ràng trắng trợn như thế.
Chuyện sanh con đẻ cái, hư thai chỉ nên nói thật kín đáo trong phòng riêng
cửa đóng then cài nơi không có mặt đàn ông. Câu nói của Galina lúc đầu mới
chỉ gây sửng sốt , rồi sau đó , một luồng ghen tuông lại nổi lên gậm nhấm trái
tim anh.
- Có phải
đó là giọt máu của anh?. – Khi cô chuẩn
bị nói tiếp, anh bỗng chộp mạnh cổ tay của
cô. - Em phải nói sự thật, hiểu chưa
Galina? Không được dối trá nữa! Nếu em muốn anh giúp đỡ em, ở lại với em, thì
không bao giờ được lừa dối anh nữa. Bây giờ, suy nghĩ cho kỹ trước khi trả lời.
Đó có phải là con của anh không?
- Em không
biết. – Cô rên rỉ.
- Ôi , lạy
Chúa! – Anh đưa tay lên ôm mặt.
- Anh thấy
đó. – Cô bắt đầu lắp bắp. - Em không thể
nào cho ông Heikki biết em đau bệnh gì. Ông ta biết ngay không phải con của ông.
Suốt mùa xuân và mùa hè ông đã không đến đây. Em thì lo sợ điều mà ông ta sẽ làm
với em nếu ông ta biết em đau ốm ra sao. Em cần tiền của ông ấy, và
cả chỗ ở này nữa.
Anh không
đáp lại. Thật ghê tởm và đáng xấu hổ. Đàn
ông thiên hạ khắp thế giới đang ngã xuống
trong sự chiến đấu cho đất nước của họ, còn anh đi lãng phí đời mình
để cứu giúp cái mảnh đời hoàn toàn vô dụng, vô tâm , ích kỷ này. Và rồi
khi nhìn xuống cô ta quá bé nhỏ, quá tái
nhợt và quá thảm thương, anh biết anh
không thể làm gì khác vì anh quá yêu cô.
- Em đã
đau ốm thế này bao lâu rồi?
- Đã mấy
tuần rồi, em không nhớ rõ.
- Có đi gặp bác sĩ chưa?
- Chưa…
Cô tránh đôi mắt anh.
- Em có
điên không? Em sợ là có thể chết mà lại
không đi khám bác sĩ.
- Em không
thể. – Cô lại khóc. – Lizka bắt em phải hứa là
không mời bác sĩ tới vì cô ấy sợ gặp rắc rối. Cô ta có đưa em tới một
anh chàng bác sĩ ở phía Viborg. Có điều em không nghĩ anh chàng đó thực sự là một
bác sĩ. Khi em bảo Lizka là em đau nặng
và nhờ cô ta mời ông ta tới khám
bệnh, cô ta nói ông không còn ở đó nữa. Rồi cô ta bỏ đi và không trở lại
thăm em nữa. – Cô đưa mắt lên nhìn
anh và nói với giọng mệt mỏi buồn bã, - Anh cũng thấy đó. Em đã có lần nói với
anh, em chẳng có một người bạn nào cả. Chỉ có đàn ông, đàn bà xum xoe quanh mình thôi.
Bỗng
nhiên anh thấy mình phải ra khỏi chỗ này ngay nếu không sẽ ngộp thở. Mùi vị của cô, ý nghĩ về việc cô làm, về con người cô làm anh
thấy có thể chết vì ngộp.
- Giờ
anh phải đi. Ngày mai sẽ trở lại.
Gương mặt cô
co rúm lại và cô đưa cánh tay ra:
- Đừng
rời xa em! Xin đừng xa em! Em sợ hãi quá .
Bởi vì
cô tới gần anh với sự đau khổ, bởi cô hoàn toàn bất lực, bỗng
nhiên cô lại ở trong vòng tay của anh, đầu dựa vào ngực anh, nỗi lo sợ của
cô lan truyền sang anh, nỗi lo sợ toát cả
ra ngoài.
- Ôi!
Galina!
- Đừng rời bỏ em!
- Anh
phải đi. Ngày mai anh sẽ trở lại và sẽ mang bác sĩ tới. Thế nào anh cũng phải tìm được một bác sĩ. Bà Yelena thì sao? Bà ấy có
thể ở lại với em đêm nay chứ? Nếu anh cho bà ít tiền, liệu bà ấy chịu ở lại chăm
sóc em cho tới khi anh xếp đặt công việc không?
- Dạ được.
Em hy vọng nếu em hỏi bà ấy sẽ bằng lòng.
- Anh sẽ
hỏi bà ấy khi anh ra về. Anh cho bà ấy tiền nhờ bà ở lại với em cho tới ngày mai anh trở lại với một bác sĩ.
Em sẽ không sao cả cho tới mai. Nhớ đừng ra khỏi giường.
-
Edwin! Anh sẽ không bỏ em phải không? Hứa không bỏ em nghe anh!
Anh hôn
nhẹ lên má cô và đặt cô trở lại giường.
- Ngày
mai anh sẽ đến. – Anh bình thản nói.
Khi rảo qua phòng ra cửa,
anh có thấy trong đôi mắt cô vẻ van nài
cầu khẩn, nhưng anh không thể nào nói những lời cô muốn nghe. Chưa thể nói được.
Anh nói chuyện với người đàn bà và cho bà số tiền còn lại trong túi, rồi bước
ra khỏi căn phòng đi xuống những bậc cầu thang. Anh đứng lại hít thật mạnh những
làn không khí tươi mát, cố cho đầu óc thoát khỏi cái ngột ngạt của căn phòng, và
của nỗi lòng chán nản thất vọng của chính mình. Anh tự hỏi trong trí làm sao giải
quyết những khó khăn rối rắm của cô, nhưng
anh biết mình sẽ phải làm. Với bất cứ giá nào, anh biết mình phải làm.
( Xem tiếp chương
19)
No comments:
Post a Comment