Chương 19
Hành trình dấn thân
K
|
hi Sophie đưa vé cho người soát
vé coi rồi vội vã lên sân ga của trạm xe lửa Newcastle, lúc đầu, cô không tìm
thấy Daisy May. Một đám đông nghẹt các thủy thủ đang chất đồ đạc hành trang của
họ lên toa chở hành lý. Cô phải chen lấn qua họ. Trời còn quá sớm và lạnh lẽo để họ có thể
biểu lộ tinh thần cao thượng, nhất
là rõ ràng họ đang trở lại sau những ngày
giờ nghỉ phép để phục vụ tiếp tại vùng Biển Bắc. Nhưng rồi họ cũng bị khuất phục
chịu mở lối cho cô.
Vội vã bước lên thềm ga, cô
càng thêm thất vọng, đảo mắt không thấy
Daisy ở đâu cả. Cô đã phải thức dậy rất
sớm vào buổi sáng, bắt chuyến xe lửa chở sữa đến Victoria, rồi ngồi tắc xi băng qua Luân Đôn đi tới King’s
Cross đặc biệt để từ biệt Daisy. Nói lời
giã biệt với người bạn của cô, thật là một việc vô cùng quan trọng cô cần phải
làm.
Gần đầu máy xe lửa, một đám người đàn ông đàn bà
lẫn lộn đang vừa chất hành lý lên xe vừa
chào hỏi giã từ nhau, tiếng nói í ới ồn ào qua tiếng rít của bầu hơi nước
nóng. Cuối cùng, cô cũng thấy Daisy May,
đứng riêng một góc, cùng chung một toán nhưng không cùng một thành phần với họ.
- Daisy!
Daisy quay lại, gương mặt
nhỏ nhắn lợt lạt của cô chợt toét miệng
cười, một nụ cười ngạc nhiên vui thích đến nỗi cô cảm thấy mọi cố gắng để đến đây thật sớm với bạn
thật đáng giá biết bao.
- Sophie! – Daisy thở vồn vã.
– Sophie! Trời thần nào đưa cô tới đây vậy? Tôi chẳng bao giờ nghĩ sẽ gặp cô ở đây.
- Tớ chỉ báo cho bà Fawcett biết là tớ đi, bà ta phải chấp nhận thôi. Không nói một
lời. Bà ấy không thể nói đưọc gì bây giờ vì ai cũng bỏ đi. Tớ bắt chuyến xe chở
sữa. Nhất định phải đến từ biệt bồ, Daisy ạ! Tớ không thể nào để bồ ra đi mà không
có…
Cô chợt ngưng lại nuốt lời vào
miệng. Mình tìm đủ mọi cách đến đây, vào giờ giấc này của buổi sáng , không thể
để Daisy May ra đi với tâm trạng nặng trĩu
và hàng đống nước mắt.
- Đáng lẽ là cô ra đi mới phải Sophie ạ! Cô là người vẫn luôn
mơ ước đi đây đi đó. Tôi thì có bao giờ
muốn làm gì khác ngoại trừ ổn cư một chỗ. Có lẽ nếu cô đi sẽ vui thích nhiều hơn tôi.
Sophie lại cố nuốt nước miếng.
- Ừ phải. Nhưng mà … bồ lại
là người ra đi. Bồ tự làm lấy hết mọi việc, tự xếp đặt, và một khi bồ tới đó rồi,
bồ sẽ thấy thích thú và…
Nhìn con người của Daisy
May, cách ăn mặc của cô làm Sophie phiền
muộn nhiều nhất. Cô đứng đó với chiếc áo
khoác đậm màu và áo sơ mi trắng bên trong, cái mũ tròn quay trên đầu có gắn huy
hiệu Quaker trên giải băng phía trước, trông cô quá lẻ loi, chẳng bắt mắt chút
nào. Đó là lý do vì sao Sophie muốn đến
từ giã. Cô không thể chịu đựng nổi hình ảnh
Daisy May không có một người thân thuộc, ra đi mà không có lấy một người đứng
trên thềm ga vẫy chào giã biệt.
- Bồ đã có đủ mọi thứ cần thiết cho hành trình rồi chứ? Cả trên tàu thủy và cả trên xe lửa ở
phía bên kia bờ nữa?
- Có đủ hết rồi.
Sophie nhìn vào đám người bên
cạnh. Tất cả phụ nữ đều có mang huy hiệu
Quaker trên mũ. Đàn ông cũng có đồng phục riêng của họ với ngôi sao tám cánh được gắn trên ngực áo.
- Bồ có quen biết một ai
trong họ không Daisy?
- Chỉ vài người thôi… từ những
buổi họp đầu tiên của chúng tôi. Tôi hy
vọng sẽ làm quen với họ trong suốt hành trình. – Cô cười, một nụ cười nhỏ hơi căng
thẳng nhưng đầy quyết tâm. Sophie đưa
tay nắm lấy cánh tay bạn và nghĩ đến điều
tốt đẹp hơn.
Cô nghe tiếng người trong
nhóm bên cạnh trò chuyện và cô biết rằng, khi họ đã có dịp quen biết nhau, Daisy May sẽ là một
người thừa thãi trong đám. Họ dường như có vẻ tử tế và ăn nói
thật sang giống như lối ăn nói của ông Hope-Browne, của bà Fawcett, không
phải thứ sang trọng kiểu cách hay ngốc nghếch, mà là thứ sang trọng dễ thương. Cô không thể tìm thấy một âm hưởng quê mùa nào như giọng nói của Daisy và của chính cô. Họ là những người có học,
khôn ngoan . Tử tế nhưng khôn ngoan. Daisy May rồi sẽ trở nên cô đơn.
- Tôi biết bạn đang nghĩ gì
Sophie. – Daisy May thình lình nói, giọng nói trở nên lớn hơn. – Nhưng tôi chắc
chắn mọi sự sẽ tốt đẹp. Tôi biết họ ăn nói như bà Fawcett, nhưng họ thực sự tử tế với tôi. Hơn nữa, có một số
người đã có mặt sẵn ở đó rồi, và còn nhiều người nữa sẽ lên đường sau bọn tôi. Bắt buộc thế nào cũng có vài người giống như… giống như tôi vậy.
- Dĩ nhiên phải có. – Sophie
thành tâm nói. Cô vẫn chưa đồng cảm được với chuyện ‘tày trời’ mà Daisy May đã làm.
Mới chỉ hơn năm tuần lễ trước, Daisy May đã cho nổ một tin động trời. Với một cử chỉ vừa
hiếu thắng vừa tự bảo vệ, cô tuyên bố sẽ
rời bỏ nhà Fawcett. Cô đã nộp đơn xin đi qua Nga, tới một vùng có tên Samara với một đơn vị cứu trợ nạn nhân chiến
tranh của Quaker và đã được chấp nhận. Cô sẽ rời nước Anh vào cuối
tháng Bảy. Chuyện ấy làm Sophie không thốt nổi nên lời.
- Tôi đi làm việc giúp những người tỵ nạn chiến tranh, những
người Nga, người Ba Lan và người Lithuanian đã mất nhà cửa gia đình vào tay bọn Đức. Họ được chuyển đến
Samara, ở miền Nam nước Nga gần rặng núi Ural. Chúng tôi sẽ đến một nơi có tên
Buzulus. Người ta có thể tìm thấy trên bản đồ thế giới.
Có một lối nói như diễn giảng
trong giọng nói của cô, dường như vừa để thuyết phục cả chính cô và Sophie. Và
bỗng nhiên Sophie lấy lại được tiếng nói:
- Bồ đi qua…Nga? Không vô lý như thế chứ? Daisy ! Bồ sẽ tự xoay
sở ra sao trên đất Nga? Bồ đâu có biết tiếng Nga.
Daisy May nhìn cô chòng chọc
và rồi nhăn mũi cười:
- Đừng ngốc nghếch chứ
Sophie! Dĩ nhiên tôi hiểu tiếng Nga .
Với cảm giác sững sờ, Sophie bỗng nhớ ra Daisy là
ai. Hai người đã cùng lớn lên với nhau
trong quá trình nhiều năm, con bé Daisy May trầm lặng với giọng nói miền Kent mềm mại và cử chỉ nghiêm trang nhút nhát đến
nỗi cả hai quên mất rằng cô là con gái của
một người lạ thường đã từng đến sống trong làng trong một mùa hè ngắn ngủi. Dĩ
nhiên, Daisy May là một người trong nhà
Barshinskeys và cô đã có mười một năm đầu đời nghe cha cô và Galina trò chuyện với nhau bằng ngôn ngữ riêng của họ.
Thêm nữa, cô lại nhận ra rằng, như đã từng
xảy ra nhiều lần trong cuộc sống của họ,
Daisy May đã không làm những chuyện người
ta nghĩ cô sẽ làm. Như trong nhiều năm tháng, Daisy hành xử
với lối vâng lời tuyệt đối trong sự tự làm mình mờ nhạt, nhẫn
nhục chịu đựng để làm vui lòng mọi người và
tỏ vẻ biết ơn, đôi khi quá mức đến đáng nổi giận, rồi bỗng nhiên không hề
báo trước cô lại làm một chuyện ra ngoài
bản chất của cô. Điều đó làm người ta nhớ lại rằng cô không giống như những
người khác.
- Tôi không nói được
tiếng Nga. Anh Ivan và tôi hồi nhỏ nhất định
không chịu nói, nhưng cả hai đứa đều hiểu. Ngay cả mẹ tôi rồi cũng hiểu đôi chút
vì bố không bao giờ nói gì khác với
Galina. Khi đi xin việc, đi tới Samara,
tôi có giải thích là tôi không thể nói được, nhưng dường như họ nghĩ rằng nghe
hiểu thôi cũng đủ để cho tôi hợp tiêu
chuẩn cho công việc. Tôi nghĩ là không có nhiều người Anh trong Quaker có thể hiểu được tiếng Nga.
- Nhưng thế nào… rồi sao…?
- Tôi không hy vọng xin được
việc. – Cô khiêm tốn nói. - Tất cả những người khác ra đi đều là bác sĩ , y tá hay những người học
thức cao. Lý do duy nhất họ nhận tôi là về ngôn ngữ.
Sophie nhìn cô đăm đăm, không
thể nào thấm nhập vào lối giải thích tréo
ngoe đó. Nếu chuyện không quá kinh khủng thì thật quá tức cười: con nhỏ Daisy May nhát như cáy, sợ hãi mọi thứ lại đi tới tận nước Nga làm việc.
- Bồ đi vì anh Edwin phải không?.
– Cô hỏi, bỗng tìm lại được miệng lưỡi.
– Đúng là vì lá thư cuối anh mới gửi về phải không?. Tớ biết là không nên cho bồ coi nó. Tớ biết mình đã làm
sai rồi.
Cô đã hầu như sợ hãi với mớ thư từ của Edwin. Ngay với những lá thông thường chỉ tả về thời tiết bên Nga, về con tàu và thành phố St
Peterburg cũng làm bố mẹ buồn phiền, nhấn mạnh rằng con trai của ông bà
tự đày đoạ cô lập mình ở vùng bên kia thế giới làm những sự việc quái lạ họ không thể nào hiểu
ở trong một thành phố xa lạ, trong khi con cái của những gia đình khác đã hy sinh ngoài mặt trận Flanders.
Nhưng vào mùa xuân, có một lá thư chợt đến. Nó được gửi đến theo địa chỉ nhà Fawcetts để bố
mẹ không đọc được, là lá thư gây phiền toái nhất vì sự trung thực của nó.
Trorng thư, anh giải thích cho Sophie biết nguyên nhân nào đã
làm anh đi tới đất Nga. Không chi tiết lắm, chỉ là vì Galina Barshinskey đã đi vào đời anh, và anh đã theo cô tới St
Peterburg. Bây giờ cô ốm nặng. Cô đã đau ốm trong nhiều tháng trời, đã phải nhập
viện và có cuộc giải phẫu nghiêm trọng.
Anh viết là anh không thể bỏ rơi cô, anh đã cam kết chăm sóc cho cô. Anh không
biết chuyện gì sẽ xảy đến cho họ nhưng tạm
thời anh phải ở lại đó. Anh nhờ cô cho
Daisy May biết anh đang săn sóc Galina và hy vọng, rồi sẽ mang được cô ấy trở lại Anh Quốc. Anh nhờ cô quan tâm tới bố mẹ. Anh nói rất xấu hổ vì anh đã
bỏ lại mọi thứ đáng lẽ là trách nhiệm của anh cho cô và chị Lillian. Và
rồi anh viết:
…và mặc dù anh nói em và
chị Lillian, anh thực sự chỉ có ý
nói tới em Sophie ạ! Bởi em là đứa con
ngoan nhất nhà. Em chính là người đang thắt chặt gia đình mình lại với nhau khi
bố thì bịnh hoạn. Em chẳng bao giờ nghĩ mình quan trọng, nhưng thực
ra em thật quan trọng bởi em quá bình dị,
quá tầm thường, quá tốt và quá thực tế đến những điều cần thực tế giống như bố. Em là người thực sự giúp đỡ gia đình Barshinskeys những năm
trước. Chính em đã nhắc nhở mẹ phải đối
xử tử tế với gia đình họ trong tình người.
Hơn
thế, em là bạn thực sự của họ, không như
anh và Lillian. Lúc nào em cũng cư xử đúng đắn
mà cũng không biết mình làm điều đúng
đắn đó. Vì thế bây giờ anh nhờ em làm tiếp
chuyện đúng đắn: ở lại trông chừng bố mẹ
giùm anh, làm người bạn tốt của Daisy, là một hộp thư cho anh và Ivan, và
là một cây cột vững vàng mạnh mẽ cho chị Lillian khi chị cần một hai chỗ nối kết để nương tựa. Đến cả tiền bạc anh cũng không thể giúp, Anh không biết nếu có cách nào để chừa
ra một ít lương của anh lại cho nhà, nhưng nếu có cách anh cũng không
thể gửi. Hiện anh phải tiết kiệm từng xu để
hy vọng có thể đưa Galina trở về nhà ngay khi có cơ hội đầu tiên. Anh sẽ
cố gắng đền bù một ngày nào đó Sophie!
Anh chẳng thấy mình đáng tự hào, nhưng anh biết mình sẽ hổ thẹn hơn nếu bỏ rơi cô ta lúc này. Cô ấy đau
ốm, bạc nhược và sợ hãi. Anh không có sự chọn lựa, nhưng anh biết mọi sự ở nhà sẽ ổn thoả nếu có em ở đó. Xin
Thiên Chúa chúc phúc cho em….
Trong
gia đình, họ không bao giờ nói
hay viết cho nhau một cách tình cảm. Cảm xúc thường được giữ kín giữa đôi môi mím chặt, và vì thế, lá thư đã làm cô
phiền lụy vô cùng với những câu nói về việc chăm lo người này người kia cũng như việc ai tốt ai không. Lá thư đánh động cô và
làm cô đã bối rối, lại thêm một chút đắng cay. Anh viết về chị Lillian hoàn toàn sai, riêng nói về cô thì giống như cô đã là một gái già ế chồng.
Những lá thư của Ivan có đôi
khi đến với cô, nhưng thường đến nhiều hơn
với chị Lillian. Cô nhìn thấy chúng trên
bàn của chị. Ivan hoặc là đã học cách viết
thư mà anh ta không thấy xấu hổ, hoặc có điều gì đó làm anh ta chẳng thèm để ý chúng như thế nào, miễn là chúng tới được tay chi Lillian. Cô rất nóng lòng
muốn biết chị có trả lời anh ta không, nhưng
vết thương mưng mủ trong tim không cho phép cô hỏi. Mỗi lần anh ta viết
cho Sophie, cô đều đọc kỹ lưỡng coi có dấu hiệu thân thương nào trong đó không,
nhưng chúng toàn là những lời lẽ của một người trẻ kiêu hùng nhưng e sợ, coi Sophie như một người bạn thân thiết
và an toàn. Chỉ có thế. Một lần anh ta viết:
- Người bạn thân của tôi vừa ngã xuống hôm nay, Sophie !. Hai đứa là bạn
thân từ khi tôi mới gia nhập trung đoàn
như một thằng lính sữa. Tôi không nghĩ mình có thể chịu đựng thêm…
Mặc dù lo sợ cho anh, cô cũng cảm thấy hãnh diện là anh đã viết cho cô như
thế. Nhưng những lá thư ấy chẳng có chút nào giống những thư anh viết cho Lillian. Cô biết điều đó, bởi cô đã có coi một lá, lấy nó ra khỏi bao
thư và đọc trộm thật nhanh trong khi Lillian ở dưới lầu, và cô chẳng thấy xấu hổ
mà chỉ thấy thật thất vọng vì những cái Ivan viết toàn là ca tụng Lillian xinh đẹp ra sao trong đêm chị ngồi dưới ánh đèn dầu bên cửa sổ và
bao nhiêu thời gian anh đã nghĩ đến chị. Anh nói anh sẽ gửi đến chị những tấm bưu
thiếp từ Pháp có hình thêu đặc biệt. Từng
tấm một chúng đến, với những mảnh tơ và
mút lin mỏng thêu thùa tinh xảo
trong lớp lụa xinh xắn và được trang trí trên tấm thiệp như một bức
tranh đóng khung. Chị Lillian có khoảng mười tấm như thế. Sophie mong ngóng anh
ta gửi đến cô một tấm, nhưng những gì cô nhận được chỉ là những diễn tiến của chiến hào.
Cuối cùng, khi
nghiên cứu lá thư của Edwin trong một lúc lâu, cô quả quyết rằng chỉ có
một phần trong đó là sự thật. Đó là phần tả cô giản dị và tầm thường.
Cô đã do dự thật lâu trước khi đưa lá thư cho Daisy May. Và rồi cuối cùng cô đưa ra vì, dù sao Galina cũng là chị ruột
Daisy May, và dù sao Daisy cũng đã nói là
cô luôn luôn biết rằng chuyện Edwin đi tới nước Nga phải có gì liên quan tới
Galina.
Đó là kết quả giờ này Daisy đang đứng trên thềm ga King’s
Cross trong bộ đồng phục Quaker với rương
hành lý dưới chân.
- Tớ hy vọng là bồ đã có viết
cho anh Edwin rồi! – Sophie nói, không nhìn vào khuôn mặt của Daisy May, nhưng
khi Daisy trả lời, cô tỏ ra trấn tĩnh.
- Có, tôi có cho anh biết là hành trình đi tới Petrograd
dự trù khoảng chín ngày. Xe lửa đến từ Phần Lan rõ ràng mỗi ngày cùng một
thời điểm. Đây quả là một biến cố, vì thế
anh sẽ giàn xếp để mỗi ngày có mặt ở nhà ga vào giờ giấc đó. Tàu của anh khoảng thời
gian này cũng đang đâu bến. Mọi chuyện diễn ra đúng theo ý muốn. Bọn chúng tôi có nhiều giờ chờ chuyến ở Petrograd trước
khi băng qua thành phố đón đoàn xe lửa đi
Mạc Tư Khoa.
Thật vô lý. Một người nhỏ
nhoi khốn khổ như Daisy giờ tuôn ra hàng loạt những tên Petrograd, Mạc Tư
Khoa trôi chảy như là Reigate và
Turnbridge Wells vậy. Rồi Daisy nói:
- Tôi biết là có vẻ ngu dại,
thảm hại nữa không chừng cho tôi đi hết
hành trình này để gặp Edwin, nhưng không hẳn là
như thế. Tôi đã từng bảo bạn khi
gia nhập vào giáo hội Thân Hữu là tôi muốn
làm điều gì đó cho đời mình, phụ thuộc vào một nơi nào đó. Giờ này tôi đang
chuẩn bị làm điều tôi muốn đó và tôi đã thuộc về đơn vị cứu trợ. Điều này với
tôi thật đặc biệt. Và đúng thế. - Lời nói cô
bỗng trở nên hối hả. –Phải.Tôi có quan tâm đến Edwin. Ít nhất, nếu tôi có
mặt trên đất Nga. Tôi đang ở trên cùng mảnh đất với anh. Có lẽ tôi có thể giúp
đỡ anh một cái gì đó, cho dù có có ở
xa cách anh nhiều dặm đường.
Từ cuối sân ga, có tiếng còi
của người giữ trạm và một tiếng hô lớn. Một trong những người đàn ông mặc đồng
phục tiến tới xách rương hành lý của Daisy May lên.
- Chúng ta lên đường, cô
Barshinskey! – Ông vui vẻ nói. - Tôi để cái này chung với mớ hành lý kia nhé? Có lẽ cô muốn lên chung
toa với cô D’ete và cô Stubbs.
Hai cô gái chăm chú nhìn
nhau, thình lình thấy e sợ trước ý nghĩ có thể họ đang nói lời giã biệt nhau mãi mãi.. Rồi Daisy nghiêng người qua hôn
lên má Sophie.
- Cám ơn Sophie… cho tất cả mọi
thứ.
- Cô Barshinskey!
Cô bước lên toa xe, nhẹ nhàng
kéo váy lên thật khả ái. Người giữ trạm đóng mạnh cửa toa và xe lửa bắt đầu nổ máy với tiếng hơi nước rít
lên. Bàn tay đeo găng đen của Daisy đặt trên thành cửa sổ, và khi xe bắt đầu lăn
bánh, cô đưa tay lên vẫy. Còn Sophie, dù có sự lo lắng, cũng thấy một chút ghen
tỵ với hành trình vượt qua núi rừng sông
biển mà Daisy May đang sắp dấn thân. Dù hành trình ấy kết thúc ra sao, dù bất cứ gì sẽ xảy ra, Daisy May cũng đang được đi
ngắm nhìn thế giới.
Họ vượt qua Biển Bắc vào ban đêm, mọi đèn đuốc trên tàu được tắt hết để tránh sự chú ý theo dõi
của đám thuyền bè của Đức. Không có một
lúc nào trong tâm trí của Daisy May nghĩ
rằng họ bước vào nguy hiểm. Mặc cho những xa lạ và những
kinh nghiệm mới mẻ về chuyến đi xe lửa
suốt chiều dài nước Anh và sự lạc lối khi xuống tàu, cô biết là dù có chuyện gì xảy đến với cô, nó sẽ không kết thúc
ở đây, trên vùng biển Bắc này. Cô có lo
lắng, nhưng không vì chuyến hành trình,
mà vì cái khả năng kém cỏi của mình.
Cô là một đầu bếp chỉ biết
sắp xếp trong nhà bếp và những bữa ăn cho một căn nhà lớn. Nhưng mớ năng khiếu đó
và một tí kiến thức về tiếng Nga là tất cả những gì cô có, và cô lo ngại đoàn người của cô sẽ khám phá ra cô là một vật
cản trở vô dụng. Tuy đã nói với Sophie
thật mạnh dạn, cô vẫn không chắc cái kiến thức về tiếng Nga ít ỏi của cô có đủ
dùng không. Ngay từ khi biết mình sẽ qua
Nga làm việc, hằng đêm, cô có thói quen
nhắm mắt lại, cố mường tượng việc
bố và Galina nói chuyện với nhau. Có lần, một ý tưởng thoáng qua trong đầu: giả
như khi mình đến đó và cuối cùng không
hiểu được tiếng Nga, giả như mình làm mọi người thất vọng khi họ cần mình… Nhưng
rồi, tự nhiên, hình ảnh Galina ngồi
trong lòng bố hiện lên trong trí, và bất ngờ cô có thể nhớ lại được âm điệu và lời nói họ đã từng nói. Cô không thể tự nói
ra miệng, nhưng cô có thể nhớ hết.
Trong hành trình, cô cẩn thận
không gia nhập vào các cuộc nói chuyện quá nhiều. Cô quyết định phải cố gây càng
ít phiền hà càng tốt và không phô ra cái
sự dốt nát của mình. Một trong hai cô gái kia
bị say sóng dữ dội khi đi trên biển,
và cô thấy là cô Stubbs, người nữ y tá chuyên
nghiệp đã tỏ ra biết ơn khi cô giúp cô ấy
cầm chậu và đi đổ nước thải. Tới đoạn cuối hành trình vượt biển, ngay cả cô
Stubbs cũng phải nằm xuống nghỉ, cô mới
bắt đầu thấy mình hầu như cũng có tí ti cần thiết. Cô bèn âm thầm dâng lên một lời cầu nguyện: Cám ơn Chúa đã cho cô
là một người đi biển tốt. Thật tệ hại như thế nào, nếu ngược
lại, bạn đồng hành phải phục dịch cô.
Cuối cùng khi mọi người và hành lý đã lên bờ, họ không đủ thì giờ cho bữa ăn sáng trước khi
phải lên xe lửa đi tới Oslo. Cô đã đi với ông
Foulgar, người thủ quỹ của nhóm,
để mua bánh mì, bơ và sữa từ một
quầy hàng trong nhà ga. Khi cả nhóm đã ngồi trên xe, vì tự nghĩ mình có nhiệm vụ phục dịch, cô tự động phân chia thực phẩm. Một
bầu không khí hân hoan và lạc quan xuất hiện. Họ vừa khởi đầu con đường và đã vượt qua được trở lực đầu tiên. Như những nhóm du hành nhỏ bị cô lập trong một
môi trường xa lạ thường làm, họ nhanh chóng
kết hợp thành một đơn vị hỗn hợp, mỗi
người tự nhận lãnh một vai trò trong nhóm hầu như không cần bàn thảo.
Họ còn rất trẻ, với ông
Foulgar ba mươi sáu, lớn tuổi nhất. Bốn
người còn lại đều dưới ba mươi, không kể Daisy May, họ đều thuộc giới trung lưu.
Cô Stubbs, người nữ y tá chuyên nghiệp tỏ ra hữu dụng nhất đám, cô D’Ete đã giúp
gây quỹ từ thiện ở Midlands. Anh Chàng
Goode, chỉ hơn Daisy May một tuổi , đang học để thành kỹ sư. Anh ta đầy năng lực với sự lạc quan vô hạn. Anh tổ
chức trò chơi đố chữ suốt hành trình trên xe lửa và
mang lại một cảm giác vui tươi và thích thú trong mọi việc họ làm. Vào thời điểm họ tới Stockholm chuẩn bị bắt đầu cho đoạn đường dài đi qua những cánh rừng thông của Thụy Điển,
hai cô Stubbs và D’Ete đã thân mật gọi nhau
và cả Daisy bằng tên riêng. Daisy vẫn còn cảm thấy quá sỗ sàng để gọi thế và cô trù tính cố tránh phải gọi tên
họ.
Mất ba ngày chạy như điên
qua sông núi Thuỵ Điển mới tới được tiền
trạm ở Haparanda. Thỉnh thoảng, ông Foulgar đọc cho họ nghe một số đoạn từ Thánh Kinh và từ cuốn
Barchester Towers mà Daisy rất thích. Từ
khi rời nhà trường, cô chẳng bao giờ có
thời giờ hay cơ hội để đọc sách. Mỗi
khi xe lửa dừng lại đủ lâu, họ
ra khỏi toa xe đi bộ lên xuống, cố kiềm chế cái cảm giác choáng váng bây
giờ dường như mai phục sẵn trong tâm và đã trở thành một tính chất vĩnh cửu của
cuộc đời họ. Những cảm giác mới mẻ, xa lạ của
hành trình đã mòn mỏi. Chỉ Daisy May vẫn còn trầm tĩnh. Cô thấy như đã xa nhà nhiều tháng rồi. Thật khó khăn để nhớ rằng chỉ mới vài hôm trước. cô còn đang nấu nướng ở căn bếp nhà Fawcetts.
Khi họ đi qua dòng sông ở Haparanda, những người
Nga đang chờ đợi họ ở đó. Với một loáng
sợ hãi nho nhỏ, Daisy biết giây phút thử thách
đã tới. Xuyên qua Na Uy Và Thụy Điển, họ có được những nhân viên phục vụ trên xe lửa biết xử dụng Anh Ngữ thông dụng
cho du khách, đủ để thông báo cho họ biết xe lửa ngưng lại bao lâu, khi nào họ nên trở lại, họ có thể ở trong các nhà hàng
trong các nhà ga bao lâu… Cô lại thấy mình lẩm bẩm cầu cho các nhân viên quan
thuế Nga cũng biết tiếng Anh căn bả . Giả như
bây giờ cô ở đây mà không hiểu được chữ nào. Họ sẽ làm gì với cô. Liệu sẽ
gửi trả cô về nước?
Họ đợi ở trạm biên phòng thuế quan trong cái mát lạnh buổi sáng, mùi hương của gỗ
thông ngào ngạt chung quanh và trên đầu bầu trời cao một màu xanh nhạt. Một người Nga trong bộ đồng phục bước
ra và chẳng cần một chút cố gắng nào, cô nghe và hiểu lời ông nói.
- Ông ta nói chúng ta phải mở
hết các đồ đạc hành lý ra. – Cô thông dịch lại. Thật là một cảm giác kỳ lạ. Cô
không biết làm sao mình hiểu, nhưng cô đã hiểu. Và khi
nhân viên đó hỏi cô có phải cả năm
người là cùng trong nhóm của cô không, cô thấy mình tự nhiên bật ra tiếng Nga: “ Dạ! năm.” Cô chỉ có thể
nhớ hai chữ đơn giản như thế.
Tất cả những người khác quay
sang cô như trút được gánh nặng, họ hỏi cô một lô câu hỏi làm cô không thể trả lời, nhưng với niềm tự tin mới tìm được làm cô bảo họ:
- Cứ mở hết mọi hành lý ra và tôi chắc chắn mọi việc
sẽ ổn. Họ đặc biệt muốn coi chúng
ta đã mang vào những sách vở gì.
Cô không thể nói nhiều hơn
hai tiếng’ có’ và ‘không’ và câu’ tôi không nói được, chỉ nghe được thôi’, nhưng tình thế bắt buộc làm
cô đủ sức. Điều gì không thể giải thích,
cô ra dấu hiệu, đưa ra sổ thông hành, giấy
phép đi lại và các công văn tài liệu từ
chính quyền nước Nga để giải thích vì sao họ đến.
Một lần nữa, cả bọn họ lại
bị thu hút. Anh chàng Goode nói:
- Ô! thật tốt quá, cô Barshinshey
này! Từ giờ trở đi bọn mình phải coi cô
như người lãnh đạo mới được.
Cô cười không đồng ý kiểu “vừa thôi ông bạn”, nhưng cũng nhận ra sự
thay đổi thái độ trong nhóm. Vai trò của cô
đã thay đổi. Cô đã gắn liền vào nhóm. Và bởi vẫn là một Daisy May, cô bắt
đầu lo lắng và cố giải thích.
- Tôi không biết mình có chắc
lúc nào cũng hiểu lời họ nói không. Cha tôi sinh trưởng ở Novgorod mà tôi nghĩ
thuộc miền Bắc nước Nga. Ở đó họ nói cùng
một thứ tiếng Nga như ở đây. Nhưng ở Luân
Đôn, người ta nói ở miền Nam nước Nga có
thể họ nói khác, một thổ ngữ nào đó. Tôi không dám hứa mình có hiểu không?
- Đừng lo. – Ông Foulgar tử
tế nói. - Chúng ta đã được khuyến cáo là
có thể sẽ phải thuê thông dịch viên địa
phương, nhưng trong đám dân đi tỵ nạn, cô hãy vui lên đi. Tất cả những người này đều từ miền Bắc. Dù bất cứ trường hợp nào, ít
ra một người trong chúng ta cũng nên hiểu
mớ ngôn ngữ căn bản. Tôi nghĩ bắt đầu từ bây giờ, trên các chuyến xe lửa, cô nên
dạy cho chúng tôi một số từ ngữ đơn giản.
Vào ngày cuối chuyến đi, họ
vượt qua những khu rừng có ánh mặt trời chiếu xuyên qua, có đôi lúc Daisy bất thần nhắc đến là rất có thể, người anh trai của bạn cô sẽ
chờ đón họ ở trạm Finland.
- Anh ấy là anh trai của
người bạn đã đến tiễn tôi đi ở nhà ga King’s Cross. – Cô nghiêm trang nói, dường
như một sự giải thích đầy đủ và hợp lý của việc có mặt của Edwin ở sân ga là điều
cần thiết. - Chúng tôi cùng lớn lên. Chúng
tôi quen nhau từ khi tôi lên mười một tuổi.
Bốn cặp mắt tò mò nhìn chăm
chú vào mặt cô.
- Anh ấy là thủy thủ tàu buôn
và phải ở lại Petrograd cùng với tàu của anh. Anh ấy bảo nếu nhiệm vụ cho phép.
Anh ấy sẽ gặp và giúp đỡ chúng ta những
gì anh có thể giúp.
Cô không nhắc nhở gì đến Galina, không muốn cho
họ biết cô có một người chị đang sống ở Petrograd. Khi Edwin viết thư cho cô, một
lá thư ngắn ngủi đọc nghe như của một khách lạ viết, anh ta bảo Galina sẽ
không đến nhà ga Finland để gặp Daisy. Cô
ấy không khỏe. Tình trạng đau
yếu không cho phép cô ấy đi. Daisy đã mừng vì chuyện ấy. Cô không muốn bất
cứ ai trong nhóm biết cô có một người chị như Galina.
- Tử tế quá! – Cô Stubbs nói.
- Gặp được một khuôn mặt người Anh ở đây
thật là hay.
- Cô có thể nhìn tôi mãi đây
này, cô Stubbs à! nếu như cô muốn thấy một gương mặt người Anh.
Anh Goode nói và cả bọn lăn
ra cưòi bởi dưới cuộc hành trình dài dằng dặc, họ đã mệt mỏi và dơ bẩn, vậy mà
chuyến đi vẫn chưa hoàn tất. Sự kiện làm
họ bắt đầu mường tượng tới kích thước tầm vóc, không chỉ của nước Nga, mà của cả công tác bày ra trước mắt họ. Đằng sau niền tự
tin đáng hoan hô của lớp người trung lưu Anh Quốc này đang ẩn nấp một mối lo sợ nhỏ nhoi đang từ từ
lớn dần lên.
Khi xe lửa tiến vào nhà ga, bụng cô bắt đầu nôn nao
khuấy động. Chuyện có ổn thỏa không? Liệu anh vẫn là anh Edwin ngày xưa? Liệu
anh vẫn đối xử tử tế tình cảm với cô như
ngày trước hay Galina đã làm anh thay đổi?
Sự khích động biến thành cảm giác nóng rát, và bỗng nhiên cô lo sợ sẽ phải
chạy mau đến phòng vệ sinh. Thật tệ làm sao, nếu như lần đầu tiên từ hai năm rưỡi nay đi gặp
Edwin, lại phải chạy vượt qua mặt để tìm nhà vệ sinh.
Rồi cô nhìn thấy anh. Edwin đang từ từ chen lấn đám đông, mắt ngước
lên các cửa sổ của toa tàu, và cô quên hẳn
việc đi nhà vệ sinh, chỉ thấy một nỗi hân hoan nhẹ gánh, vì anh mặc dù ốm đi và
có vẻ hơi căng thẳng, cơ bản vẫn là anh
Edwin xưa, một chàng trai trẻ cao lớn , xạm nắng , rắn rỏi,
nổi bật giữa đám đông, vẫn trông mạnh dạn , có thể trông cậy được như thuở nào anh luôn quan tâm đến những kẻ yếu đuối hơn.
Cô nhìn anh đăm đăm, không
biết là có người bật cười vì khuôn mặt cô.
Rõ ràng anh chàng Goode đang nhìn cô mà cười.
Anh Goode là người bước xuống
đầu tiên để đưa tay ra dìu các cô xuống.
Cô không nhìn thấy anh và để bàn tay giúp đỡ anh rơi vào khoảng trống, bởi
Edwin đang tiến tới gần họ, và khi anh thấy cô, anh cười, một nụ cười ma quái,
nhưng vẫn là nụ cười không hơn không kém. Và rồi dưới sự ngạc nhiên của cô, anh
cúi xuống hôn lên má cô, một cái hôn kiểu chú
hôn cháu, nhưng cũng làm cô đỏ mặt.
Trước đây anh chưa bao giờ làm thế.
- Anh chờ có lâu không? – Cô
ngốc nghếch hỏi, bởi nếu không hỏi một câu tầm thường trần tục kiểu ấy, có lẽ cô đã bật khóc.
- Hai tiếng đồng hồ thôi, k hông
hơn. – Anh lại cười. – Cô khoẻ không
Daisy? Trông cô vẫn thế.
- Anh cũng vậy.
Cô nói dối. Bây giờ ở bên cạnh,
cô có thể thấy anh đã xuống bao nhiêu ký và còn phảng phất một thái độ xa lạ nào
đó trong con người anh, dường như sống
trên đất nước Nga này suốt thời gian qua đã hằn dấu vết riêng biệt lên anh. Cô
cũng thấy những người khác bao quanh cô hơi bối rối.
- Đây là cô Stubbs, cô D’Ete ,
Ông Foulgar và anh Goode.
- Anh đến gặp chúng tôi thật là
quá tử tế. – Ông Foulgar nói. - Tôi nghĩ
là chúng tôi có vài giờ nghỉ ngơi trước khi bắt chuyến xe đi Mạc Tư Khoa. Có lẽ
ở đó sẽ có một người trong nhóm đến trước đây của chúng tôi ra đón, nhưng thật vô cùng tốt lành có anh giúp đỡ ở đây.
Những người khác cũng mở lời
cám ơn. Mọi người bỗng trở lại thuần tuý Ăng Lê, họ bắt tay nhau, kể chuyện vu vơ về chuyến đi
và sự tử tế của Edwin. Riêng Daisy, bị giằng co giữa niềm vui gặp lại
Edwin và
sự hãnh diện với những người bạn
mới, cô không nói nên lời. Edwin nói:
- Tôi đề nghị là quý vị nên ăn
uống ngay trong nhà hàng sân ga này. Nó
không giống bên nhà. Những quán ăn trong nhà ga ở đây nó cũng ngon (hay dở) giống như quán xá trong thành phố vậy. Cái nhà ga này đỡ đông đúc chật chội hơn nhà ga Nicholas. Có
cả một đạo quân người đang đi gửi hàng ở đó, và các bạn sẽ thấy không
được tiện nghi. Để tôi đi kiếm một người phu khuân vác giúp giữ hành lý cho các
bạn, và tôi chắc là quý cô cũng muốn rửa mặt mũi tóc tai một chút trước khi ăn. Daisy này! - Với sự tinh tế và lịch sự, anh kéo cô ra một góc. - Phòng Damskaya (phòng dành cho phụ nữ) ở phía đằng kia, băng qua đại sảnh chính. Cô nghĩ là có thể tìm được lối không?
Có một điệu bộ hơi lớn lối
trong giọng nói của anh, giọng chỉ huy. Đáng
lẽ cô phải vui sướng vì sự săn sóc ân cần
của anh cho tiện nghi của họ, nhưng lạ thay, cô thấy như bị chọc tức. Chẳng lẽ, giống như Sophie, anh cũng quên rằng
cô có nửa dòng máu Nga trong người và có
thể hiểu tiếng Nga sao?
- Cám ơn, Edwin. Từ hôm vượt qua biên giới vào đây, em đã học đọc chữ Nga rồi. Bọn em cũng đã có ngưng nghỉ
mấy trạm trong bốn ngày qua rồi.
- Khi bọn cô đi làm vệ sinh cá nhân, tôi sẽ đặt trước hai bàn trong quán ăn.
Khi lựa đường lách qua cái sảnh đường dơ dáy tới phòng vệ sinh nữ, cô cố gắng để những xúc động nôn nao trong lòng vào đúng vị trí.
Cô đã muốn anh phải là con người y hệt như ngày xưa hay gần như vậy, nhưng cái cô nhận
được là một nỗi thất vọng. Cô có mặt ở đây để khởi đầu một
đời sống mới. Cô đeo huy hiệu ngôi sao trắng đỏ của hội Thân Hữu, và cô đượng
chấp nhận, hay đâu đó gần bằng, như những con người khôn ngoan, có học trong toán của cô. Vậy mà Edwin dường như chẳng
thấy gì hết.
Khi cô chen lấn qua đám đông,
qua mặt một bà già quê mùa bận chiếc váy
sọc và chiếc khăn choàng đen, cô
quay lại nói ‘Ja vinovat’ (tôi xin lỗi) với thái độ nhã
nhặn quá mức, dường như cốt để cho Edwin
thấy khả năng của cô ra sao hơn là thành
ý tạ lỗi với người đàn bà đó.
Quán ăn đầy người. Có rất
nhiều những sĩ quan mặt búng ra sữa
trong bộ đồ trận ngồi ăn chung với những nhóm người dân sự, đa số là đàn bà.
Daisy đoán là các bà mẹ và vợ con họ đi tiễn họ lên đuờng. Mùi súp nóng phảng
phất khắp nơi . Một ấm nước sôi nhè nhẹ rít lên tiếng réo, xoắn bốc lên không một làn hơi mỏng. Thật tế nhị, bốn người kia tự động kéo
nhau ngồi chung một bàn, chừa bàn còn lại cho cô và Edwin. Bỗng dưng, ngồi
riêng với anh, cô thấy mình chẳng biết nói gì.
- Mọi người ở nhà thế nào?
- Không tệ lắm… Bố anh
không khoẻ nhiều, nhưng hằng ngày ông vẫn gắng gượng
đến nông trại Haywards . Giờ ông phải làm thôi. Đàn ông đã ra chiến trường
hết cả.
- Còn Ivan?
- Đang ở Pháp với trung đoàn
của anh. Giờ anh ấy đã là trung sĩ.
Edwin đổi sắc mặt. Dường như
anh hơi hổ thẹn, và rồi người bồi bàn bước tới. Như thoát nợ, anh cầm lấy bảng
thực đơn, nghiêng mình qua bàn bên giúp chỉ dẫn
gọi thức ăn. Từ đầu hành trình tới giờ, Daisy chưa thể đọc được Nga ngữ, thường cứ phải tuỳ
thuộc vào những câu đàm thoại vụng về với những người bồi bàn để cố thông dịch lại ở mỗi quán ăn có những món nào. Giờ cô rất thán phục nhìn thấy Edwin
cầm thực đơn đọc bằng
chính mắt mình.
- Anh đọc được tiếng Nga à?
- Khá hơn là nói. Tôi e là không có nhiều món để chọn. Súp bắp cải và thịt cừu nướng. Thức ăn thiếu thốn và thịt cực kỳ khan hiếm. Nhiều tuần
lễ đến bánh mì cũng không có. – Anh ngưng
lại một chút, rồi tiếp tục nói với giọng
hơi ra vẻ kẻ cả. - Cô đáng lẽ không
nên tới đây, Daisy. Nước Nga không an toàn cho người như cô. Tôi nghĩ rất có
khả năng họ bị bại trong cuộc chiến. Tin tức công khai cho
biết danh sách thương vong vô cùng lớn lao và ở tiền tuyến quân lính đào ngũ hàng
loạt. Ngay lúc này đám dân Anh mình không
còn được trân trọng. Họ nghĩ chúng ta không
tận tâm giúp đỡ.
- Vì thế bọn em mới có mặt ở
đây. – Daisy bào chữa. - cố giúp góp thêm
một cánh tay.
Anh như bị chọc tức. Bỗng
nhiên cô nhận ra cái biểu lộ thân quen đó.
Đã nhiều lần khi cùng lớn lên, cô đã thấy
và không nghe theo những lời chỉ dạy tử tế của anh.
- Daisy! Cô thực sự không biết mình đang làm gì. Cô giống
như đứa trẻ đi vào hang cọp. Ở đây không giống bên Anh, hoàn toàn khác xa, hiểm
nghèo. Ông thuyền trưởng… - Anh ngưng lại một giây, dường như cân nhắc lời nói có thực an toàn. - Thuyền trưởng của tôi và những người ở toà đại sứ nghĩ là rất
có khả năng một cuộc nội loạn
chính trị sẽ xảy ra, với hỗn loạn
và bất ổn khắp nơi. Nếu chuyện đó là thật, những kẻ đầu tiên bị tấn
công sẽ là người ngoại quốc. Hầu hết dân Anh ở đây đã quay trở về. Chỉ ngờ nghệch như cô mới mò tới.
- Vậy thì tại sao anh vẫn còn
ở đây?
Cô cảm thấy bị sỉ
nhục, tổn thương và điều đó làm cô giận dữ. Cô đã ngóng đợi rất nhiều về buổi gặp
gỡ này, mong có lại mối liên hệ cũ, bởi cô biết không thể hy vọng nhiều hơn. Nhưng
cũng mong muốn là anh phải coi là giờ cô
đã là một phụ nữ trẻ độc lập, có thể tự
đặt kế hoạch cho cuộc sống riêng của mình. Thay vào đó, anh lại nói với cô như
cô vẫn là đứa trẻ bất tài vô dụng, một đứa
con của gia đình Barshinskeys rách rưới.
- Tại sao anh còn ở lại khi
hầu hết thủy thủ đoàn trên tàu đã trở về nhà? – Cô giận dữ hỏi.
Một biểu hiện bị săn đuổi
lướt qua trên khuôn mặt của Edwin.. Anh mở miệng định nói, và rồi người bồi bàn mang tô súp nóng tới. Hai người chờ anh ta đặt
tô súp xuống và bỏ đi.
- Tôi hy vọng Sophie có nói
với cô về chuyện Galina. – Anh cứng cỏi nói.
- Có!
- Và dù bất cứ trường hợp nào,
bây giờ tôi không có quyền bỏ tàu. Chính
phủ Anh Quốc đã quyết định mọi tàu bè của
Anh đang ở các cảng nước Nga giữ lại một
số nhân viên thủy thủ. Nếu có chuyện xảy ra, chúng tôi phải bảo vệ tài sản Anh
Quốc.
- Nhưng anh đã có thể trở về
sớm hơn không phải sao?
- Tôi không biết, Có lẽ thế!
- Anh ở lại chỉ vì chị Galina?
- Đúng vậy! – Anh giận dữ nói.
– Cô biết mà. Sao lại còn hỏi những câu này?
- Em nghĩ anh có rất ít quyền để nói em không biết mình đang làm gì. Em chính
thức tới đây, với sự chấp thuận hoàn toàn
của chính quyền nước Nga. Em có mặt ở đây với hội Thân Hữu, một tổ chức có lịch sử làm công tác cứu trợ lâu dài
và đưọc trọng vọng ở đất Nga này. Anh đâu biết gì về hội Thân Hữu hay vì sao họ có mặt ở đây, anh Edwin. Anh đâu biết
gì về nhóm chúng em. Em đâu có trôi giạt tới đây bởi may mắn hay đến
để nhàn nhã rong chơi.
Gương mặt cô trắng bệch ra
và giọng nói của cô, dù đã cố kiềm chế vẫn run run và the thé. Cô nhận thấy bàn
bên kia Elizabeth Stubbs và Flora D’Ete đang
chăm chú nhìn cô, và với bàn tay vẫn còn run rẩy, cô cẩm cái muỗng ăn súp lên.
- Cô nghĩ tôi qua đây để
rong chơi nhàn nhã? – Anh hỏi, môi mím lại. Nhưng một giọng nói trong tim anh
vang lên : “ Còn gì nữa? Còn gì khác ngoài việc mày gạt bỏ mọi thứ để đeo đuổi Galina?”
Cơn giận của Daisy bốc lên thành nỗi lo sợ bất ngờ. Suốt đời cô trước đây,
chưa bao giờ cô dám coi thường Edwin. Cô luôn tôn kính anh, nghe theo lời anh. Nhiều
năm trời, khi có sự hiện diện của anh, cô luôn nhìn lại mình, giữ ý từng lời nói,
từng cử chỉ để anh không thể thấy bất cứ gì đáng ghét nơi cô. Và lúc này, khi cô
chỉ có ít ỏi thì giờ quý báu với anh, vì cơn giận dữ cô đã liều bỏ hết. Nhưng sao
vậy? Ôi! Tại sao anh không thể thấy là mình đã khác? Tim cô thổn thức. Tại sao anh không thấy minh đã trưởng thành?
- Em không biết vì sao anh đến
đây, anh Edwin! – Cô buồn bã nói. - ngoại trừ lý do em nhớ được là vì bà chị của em. Và em đoán là chẳng có gì đáng ngạc nhiên nếu có chuyện gi
xảy ra. Chị ấy thế nào?
- Yếu lắm!. – Anh nói. - Cô ấy bị nhiễm trùng máu sau cuộc
giải phẫu, và rồi qua bệnh sưng phổi. Cô không được khoẻ và rất tuyệt vọng. Cô khóc nhiều lắm.
Một mối ghen tuông tràn vào
trong tim làm cô quên cả sự cẩn trọng.
- Chị ấy lúc nào chẳng khóc
khi muốn người khác nuông chiều theo ý
chị. – Cô nói thật phũ phàng, nhưng Edwin làm như không nghe thấy.
- Chị ấy giải phẫu về bệnh gì? – Cô hỏi, nhưng trong thâm tâm nghĩ:
“ Mong cho chị chết đi. Sao chị không chết
cho rảnh nợ?”
Edwin do dự. Đôi mắt anh tránh
gặp đôi mắt cô.
- Một loại giải nào đó. phẫu ở phần bụng Tôi không chắc là chuyện gì.
- Bị ung thư?
- Không,không phải ung thư.
- Ồ! Vậy thì không sao. Nếu không
phải ung thư.
- Cô có muốn tôi nhắn gì với cô
ấy không?
- Chị có nhắn gì cho em không?.
– Cô lại tràn đầy phẫn nộ đắng cay. Lại phải cố kiềm chế giọng nói, nhưng cô mệt
mỏi quá, chuyến hành trình thật dài và cô
dường như đã kiệt sức.
- Cô ấy gửi tới lời thương nhớ
cô.
- Đừng nói với chị ấy là em thương nhớ chị. Như thế
là nói láo phải không?
Cô biết là nói những lời thực
sự từ trong lòng như tạt át xít vào mặt người khác như thế, cô đã huỷ hoại hết
những năm tháng với cảm tình cao quý, nhưng đồng thời lại có cảm giác tự do tuyệt vời. Cô cảm thấy sự cấp thiết cần buông thả, cần nói những điều ghê gớm về
Galina, cần cho anh biết những chuyện đáng sợ, những điều ích kỷ giấu kín trong
tim, những gì cô làm khi họ còn là trẻ con.
- Anh chỉ việc nói là em cầu
chúc chị ấy chóng bình phục.
Rồi cô thấy là, qua cơn giận
dữ đến run rẩy và sự thất vọng của cô. Edwin vẫn mỉm cười với cô với thái độ
vui thích và dễ tánh, và cô nhận ra rằng
anh nghĩ cô thật trẻ con.
- Đừng ngu ngơ thế Daisy! –
Anh tử tế nói.- Dĩ nhiên tôi sẽ nói cô gửi
lời thương nhớ chị cô.
Cô phải làm một điều gì đó,
bất cứ gì để làm cho anh nghĩ về cô như một người trưởng thành, một người bình
đẳng. Cô bắt đầu lục lọi trong xách tay và cuối cùng tìm được một mảnh giấy, lấy
ra trao cho anh.
- Cầm lấy đi. - Cô cố gắng nói bằng một giọng nói mà bà
Fawcett thường dùng khi bà chiếu cố đến nhà bếp. - Đó là địa chỉ của đơn vị tổ chức Thân Hữu ở
Buzulus. Anh không bao giờ biết trước có
khi nào anh hay chị Galina cần dùng đến nó. Bọn em có thể giúp đỡ nếu anh gặp rắc
rối.
- Cám ơn Daisy! – Anh trang
trọng nói, đôi mắt chớp chớp.
Người bồi bàn đến dọn dẹp tô
súp đi và đặt vào hai đĩa với miếng thịt
cừu nhỏ như sợi dây và một ít dưa leo ngâm muối.
- Còn cô biết cách liên lạc với tôi chứ? – Anh nói.
– Qua lãnh sự quán. Tôi sẽ cho cô địa chỉ
của nơi Galina đang ở.
Điều đó cũng thật đau lòng, cho dù cô chẳng biết sao
lại đau. Rõ ràng anh biết nơi chị ấy sống. Rõ ràng anh vẫn thường tới đó. Chính
cái sự …thân quen của anh khi nói về nơi đó
gây bối rối cho cô. Nó mở ra nguyên
vẹn những khía cạnh để suy cứu trong tâm
tưởng mà cô không muốn nghĩ tới. Cô mơ hồ nhận ra rằng tốt hơn họ phải ngưng ngay chuyện về Galina. Điều đó
sẽ phá huỷ mọi thứ.
- Anh có biết là bây giờ Sophie đã phụ trách toàn thể nhà
Fawcetts chưa?
Mắt anh sáng lên.
- Người hầu gái kia đã xin nghỉ, người làm vườn và anh thợ nồi hơi đã
nhập ngũ. Rồi đến phiên em báo nghỉ. Bà Fawcett bỗng nhiên rúng động và
dưòng như không thể đối phó với quá nhiều đổi thay, Rồi Sophie tiếp nhận. Bây
giờ cô giống như một nữ quản gia hơn là một
cô hầu phòng khách. Một trong các cô con gái của nhà Kelly giờ vào làm bếp. Hai người khác làm việc ban
ngày. Sophie coi sóc tất cả. Em nghĩ bây giờ mẹ anh hãnh diện lắm, mặc dù dĩ nhiên bà không nói ra.
- Còn Lillian?
- Ô! Chi Lillian những ngày này
‘oách’ lắm. Có một lần, bà vợ của tướng
Harding ở trên Dormansland nhìn thấy chiếc áo đầm chị ấy thiết kế và bà bảo nó thật xuất chúng. Thật
xuất chúng, Đó là lời bà ấy. Rồi bà giới
thiệu Lillian với một tiệm may ở Luân Đôn, em nghĩ đâu như trên đường Bond. Giờ chị ấy lên
Luân Đôn hai ngày trong tuần để phụ giúp
một nơi mà mẹ anh gọi đó là ‘ sa
lông, sa liếc’ gì đó. Vì chiến tranh đâu đâu họ cũng thiếu người. Chi Lillian
treo thêm một tấm bảng trước cửa tiệm cô Clark, với hàng chữ: Thiết kế
quần áo trang phục và lễ phục.
Edwin bật cười lớn, và bỗng
nhiên giây phút thân mật cũ trở lại, cái
tình bạn cũ giữa hai người. Nhưng rồi
anh lại làm tiêu tan ngay khi nói.
- Còn cô sẽ làm gì
Daisy? Khi cô hoàn tất công việc cứu trợ, hay gì gì đó. Cô có quay về, trở lại nhà
Fawcetts không?
Bộ anh không thể nhìn thấy
là cô đã không còn là một kẻ đầy tớ nấu bếp vô dụng, bằng lòng với số phận
trong nhà bếp của Fawcetst sao? Anh không thể thấy là cô đã đổi khác? Rồi. trong một giây phút hoảng hốt,
cô tự hỏi không biết mình đã đổi khác chưa? Chưa bao gìờ cô nghĩ quá khỏi việc đi tới nước Nga, quá khỏi việc
tìm cho mình một nơi chốn ở chỗ nào đó, và để gặp Edwin. Cô sẽ làm gì khi chiến
tranh qua đi? Cô sẽ đi về đâu? Cô bỗng
thấy lạc loài cô độc trong cái thế giới
không có mối liên hệ, không nhà, không có
ai để ý đến. Và rồi, như một sự đụng chạm thực tế, cô cảm thấy những người khác đứng phía sau. Cô
Stubbs với sự điềm tĩnh của người y tá và
rồi Flora, ông Foulgar và anh chàng
Goode vui tính. Cô đang bắt đầu là một người trong bọn họ, gắn bó với họ,
không phải chỉ vì cuộc hành trình và cùng
ở với nhau trên mảnh đất xa lạ mà còn vì họ đã chấp nhận cô đã cùng có những cam kết chung giống như họ.
Họ tùy thuộc vào mình. Cô nghĩ. Họ tùy thuộc vào mình. Cô bám lấy suy nghĩ này.
Giờ cô không biết tương lai sẽ ra sao,
nhưng trong lúc này, cô đang ràng buộc với những người bạn mới.
- Tôi tự hỏi là
có phải đã đến lúc chúng ta chuẩn
bị để qua trạm xe lửa khác chưa ạ? – Ông
Foulgar lo âu hỏi. Ông lịch sự nhìn từ cô
sang Edwin, và rồi Edwin đứng dậy.
- Tôi đi thuê hai chiếc xe ngựa. Rồi tôi sẽ bảo người phu chất hành lý lên cho quý vị.
Họ theo anh ra khỏi quán ăn
đi vào sảnh đường chính của nhà ga. Daisy chú ý đến nhiều thứ mà cô đã không để
ý trước đó, những dấu tích chiến tranh, một hàng lính trong bộ đồng phục xám. mền chiếu cuốn lại
đeo trên vai và nồi niêu bằng thiếc đeo ở phía sau. Sàn nhà rải rác vỏ hạt đậu
hướng dương. Cô thấy đám lính ai cũng nhai kẹo và khạc nhổ, khắp nơi quện mùi khói thuốc.
Đám đông là một sự pha trộn
giữa sang và hèn. Những sĩ quan viên chức ăn mặc chỉnh tề và những phụ nữ sang trọng với dù trên tay chen lấn giữa những kẻ ăn mày râu ria rậm rạp,chân
quấn giẻ thay giày. Một người bán dạo đẩy chiếc xe nấu than nhỏ qua giữa đám và ngay phía trong cửa ra vào chính,
một dáng người thò ra
ngoài. mặt quay vào tường, không biết đó là nam hay nữ.
Nhà ga Nicholas còn tệ hại
hơn. Thật khó để chen qua một lượng lớn
lính tráng và sĩ quan đứng chật ních. Đàn bà trẻ em la khóc cùng với
đàn ông nín lặng như tờ tụ tập chung với nhau.
Cô chỉ lờ mờ hiểu được vài câu nghe lén : “ Bánh mì ngon lắm; để dành sẽ ăn được lâu” , “đeo tượng ảnh vào…” và “ Cầu
Chúa che chở cho con…”
Edwin đưa họ tới xe lửa, nói
chuyện với người phục vụ, giành chỗ ngồi rồi giúp chất hành lý của họ vào toa.
Hồi chuông thứ hai rung lên,
và Daisy, ngồi ngay cửa sổ, bỗng thấy mình
sắp sửa đi xa, hàng trăm dặm. Có thể cô sẽ không bao giờ gặp lai anh. Hai người
chỉ có vài giờ ngắn ngủi gặp nhau, vậy mà hầu hết thời gian họ dùng để cãi nhau. Cô đã hy vọng, mong muốn quá
nhiều cho buổi gặp gỡ này, mặc cho mọi thứ, mặc kệ Galina, nhưng trên thực tế,
chẳng có gì xảy ra cả..
Khi hồi chuông thứ ba rung và xe bắt đầu lăn bánh, cô thấy là có lẽ
chẳng bao giờ có chuyện mới lạ. Cô vẫn là
con bé Daisy May đáng thương. Đó là điều họ nghĩ về cô. Họ thương yêu cô
nhưng thấy tội nghiệp cô. Cô nghèo nàn và thấp kém, một đứa con của kẻ ăn mày.
Một luồng khói dầy dặc bay qua cửa sổ, và khi nó tan đi, cô quay lại
nhìn và
bắt gặp một thoáng gương mặt tươi
cười của Edwin, nụ cười dễ cảm ngày xưa, vừa tử tế vừa
nổi bật nam tính, nụ cười đã thu hút phụ nữ lắm lắm, đặc biệt phụ nữ nhà
Barshinskeys. Khi đoàn tàu kéo ra khỏi sân ga, cô có cảm giác cái thân quen cũ cứ gặm nhấm tâm hồn cô một phần vì mặc cảm tự
ti của mình, một phần vì tình yêu cô dành cho Edwin.
Thật khó để có lòng tự trọng khi ta không có một mái ấm
hay một sở hữu nào, bố không thèm để ý tới
và biết rằng dù mẹ có yêu thương ta nhưng
bà yếu đuối, bị áp bức và quá tội nghiệp.
Cũng khó mà tin tưởng vào giá trị của mình khi bạn ít học, ăn mặc tồi tàn và là khách hàng thường xuyên nhận lãnh các vật cứu trợ và sự
chiếu cố từ người khác. Cô chưa
bao giờ gặp bất cứ ai thấp hèn hơn mình, nhưng cô thừa nhận là một phần nào đó do chính lỗi của cô. Bởi chính
cô đã coi trọng mình quá ít, làm sao người
khác coi trọng cô được.
Và rồi từ một nơi nào đó, chắc chắn không phải
từ nơi người mẹ đáng thương uỷ mị, cô lại
thừa kế một bản tính bướng bỉnh, sự bướng
bỉnh làm cho cô có một tính cương quyết gần như thách thức ở ngay trong nhà hội của Quaker ở Reigate vào Chúa Nhật đầu tiên cô bước chân tới. Ở nơi đó,
trong một buổi tĩnh tâm thầm lặng chung, cô đã khám phá ra một sự bình an đến từ một nơi nào đó bên ngoài con người cô. Vào
ngày Chúa Nhật sau, khi sự yên bình nhẹ nhàng đó chiếm lĩnh tâm hồn, cô lại nhận
ra khi ở trong làng cô không bao giờ cô
độc. Cô ở chung phòng với Sophie, cô tiêu ngày tháng trong sự ồn ào của khu bếp nhà Fawcetts, và cô
san sẻ niềm vui trong căn bếp nhà
Willoughbys.
Cô tin vào Thiên Chúa. Niềm tin hời hợt của mẹ cô, tinh thần Ki tô hữu
thực tiễn của gia đình Willoughbys đã củng cố niềm tin của cô vào Thiên Chúa, nhưng cô vẫn luôn luôn nghĩ về
Ngài như một con người chủ bận rộn trong việc quản lý một số lượng khổng lồ những uỷ ban bảo vệ lợi ích của Ngài hơn. Và
bây giờ cô lại bắt đầu tự hỏi có lẽ Thiên
Chúa là một con người trầm lặng, một ai đó
hơi khó hình dung, như mùi vị của biển cả
đôi khi trôi dạt vào đất liền khi có gió thổi đúng chiều.
Phải đến bốn tuần lễ mới có
người đến hỏi tên cô, và điều đó cũng làm cô thích thú. Thật sảng khoái được là kẻ vô danh, được để yên
để tự tìm hiểu tầng lớp của chính mình
thay vì bị xô đẩy vào những tấm lòng tử
tế thích ba hoa tán gẫu. Cảm giác yên bình đã thắng, càng
mạnh mẽ hơn mỗi lần cô đến. Đó không phải là điều cô tới để tìm, nhưng sức mạnh
thấm nhập vào cô từ sự bình an trầm
lặng đó dường như đưa cô về nhà , êm ái nhẹ nhàng , ung dung tự tại.
Rồi vào một buổi họp , một
người đàn bà nét đau khổ hiện rõ trên mặt
xin được giúp đỡ và cầu nguyện cho việc phiền muộn quá lớn trong lòng của
bà. Bà đã không nói ra phiền muộn gì, nhưng
Daisy với cảm giác hơi ngạc nhiên, chợt
nhận thấy là chỉ ngồi đó và cảm nhận sự
bình an thì chưa đủ. Cô phải cộng tác vào đó. Một cách ngây thơ, cô nhắm mắt lại
và truyền đạt niềm an ủi đến người đàn bà đau khổ, không biết có hiệu nghiệm không, nhưng
bắt đầu hiểu ra rằng cái mà hội Thân Hữu
làm là sự chia sẻ với nhau. Và với
sự thông hiểu đó dẫn đến sự nhận chân được
giá trị của riêng mình, một nhận thức mỏng manh rằng cái mục đích tốt đẹp của một
người dù có thấp hèn như cô cũng có thể cộng tác vào cái tốt đẹp chung.
Kiến thức, nhận thức về giá
trị riêng của mình lúc có lúc không, đôi
khi cô
mất hết, nhưng có cái cô đã không mất đi là cảm giác mình đã thuộc về những
người đó, là một phần tử trong họ.
Khi cô ngồi trên chuyến xe
lửa chật người, đăm đăm nhìn qua cửa sổ quan sát cảnh vật
cây cối và đầm lầy bằng phẳng tưởng như không bao giờ dứt, cô tự hỏi có phải cô tới nước Nga này là không đúng? Cô tới đây vì
nhu cầu hay vì Edwin? Cô không chắc. Có lẽ chẳng bao giờ cô biết chắc.
Nhưng trong tim cô, sự mãn nguyện cứ lớn dần với cuộc sống mới. Chẳng có gì có thể bắt cô không
được yêu Edwin, nhưng cho tới khi anh cần
tới, cô quyết định tìm một nơi chốn cho
mình ở đây, với những người bạn tốt và có mục đích cao cả này.
Cảm giác sững sờ đến với
cả nhóm, mặc dù họ là những người có tri giác và rất thực tế, dư đoán biết
đưọc tình trạng sẽ xấu
như thế nào. Họ cố đi tìm sức mạnh từ niềm tin và từ cảm nhận thông thường,
nhưng trong thoáng giây, họ thấy choáng váng, thấy tràn ngập sự đe doạ bởi bệnh tật, sự nghèo khổ, trạng thái dơ bẩn, và
trên hết, tình trạng bi đát của hai trăm ngàn người tỵ nạn.
- Đa số họ đã mất hết mọi thứ , trừ bộ quần áo mặc
trên người. - Ông Robert Tatlock nói ngay đêm đầu tiên đoàn
người đến Buzulus. Họ ngồi quanh chiếc bàn gỗ, từ ngoài cửa sổ bay vào mùi hôi
thối của một thị trấn vào mùa hè nước cống
không thoát. Xe lửa đến nơi vào khoảng mười một giờ đêm và họ chỉ có một ấn tượng
lờ mờ hỗn độn về những căn nhà tồi tàn,
những con đường đất thô sơ và những đàn
ruồi đông khủng khiếp.
- Họ đã bỏ chạy trước sức tiến vũ bão của quân Đức và cuối cùng được tàu chở đến
Turkestan mùa đông vừa qua. Một phần ba
đã chết ở đó, một số vì bệnh tật, nhưng hầu hết vì đói và lạnh. Những
người sống sót được mang tới đây và ở chung với dân quê địa phương, những người
không ưa họ lắm.
Ông ngừng lại và nhìn vào những gương mặt trẻ mệt mỏi quanh bàn.
- Khi tôi
nói về những người dân quê, các bạn hãy quên đi những nông dân của chúng ta ở tại
quê nhà. Ở đây họ không giống vậy. Dân quê ở đây họ cũng chẳng sống khá hơn đám dân tỵ nạn là bao. Họ chỉ có một bữa ăn
trong một ngày, cả nhà sống chung trong
một căn phòng và ghẻ ngứa là đặc sản địa
phương, không có bệnh viện hay bác sĩ
trong một khu vực cả ngàn dặm vuông. Vào mùa hè có bệnh thương hàn, đậu mùa và
bệnh than. Vào mùa đông, họ chui rúc vào trong những căn lều có lò đốt, thiếu khí trời và quá chật chội. Đó chính
là cuộc sống bình thường ở đây.
Dân tỵ nạn có tất cả những thứ ấy, thêm vào đó là họ mất cả gia
đình, nhà cửa… Quần áo họ mặc không thích hợp với khí hậu địa phưong. Thêm một
phần ba sẽ chết vào mùa đông tới, trừ phi chúng ta có thể mang đồ ấm áp từ nhà
qua. Tất cả đàn ông đều, hoặc đã chết, hoặc đang ở ngoài mặt trận, và hầu hết bọn
họ không biết người thân của họ hiện đang ở đâu. Tất cả họ đều chứng kiến cha mẹ họ, con cái họ
hấp hối chết trên đường đi. Không có lấy được một gia đình nào còn nguyên vẹn.
Trong nhiều trường hợp. chỉ còn một người sống sót và có một đứa bé còn không
thể nhớ cả tên nó lẫn tên của làng. Họ không chỉ suy dinh dưỡng, yếu đau và thiếu
áo quần mà họ còn hoàn toàn mất tinh thần, tuyệt vọng. Nhiều người trong họ sẽ chết vì họ muốn thế.
Ông là một chàng trai trẻ tuổi, tử tế, khá đẹp trai với khuôn mặt thuôn dài và hàng ria mép đậm. Ông ta có
dáng dấp một dân Anh thuần túy và nhìn vào, người ta sẽ nghĩ ông chắc làm
việc ở ngân hàng hay là một ông thầy dạy học. Mặt ông có vẻ căng thẳng, nhưng từ
con người ông toát ra một vẻ oai phong
quyền lực. Chỉ có điều này mang đến cho họ
ít hy vọng.
- Chúng ta có thể làm gì?
- Anh chàng Andrew Goode hỏi. Ngay cả sự
bồng bột phấn khởi của anh cũng đã xẹp xuống
- Điều chúng ta có thể
làm được rất ít . Chúng ta không đủ người,
cũng không đủ bất cứ thứ gì, không đủ quần áo, không đủ thực phẩm, thuốc men và
dụng cụ y tế. Chúng ta chỉ làm những gì
có thể, làm giảm bớt cái bề ngoài của sự
khốn khổ của họ và cố học hỏi tiếng Nga cho thật mau lẹ. Chúng ta có nhân viên
thông dịch , nhưng khi xử dụng họ, mọi
việc đều rất mất thì giờ và thường xuyên
có sự hiểu lầm. Cô Barshinskey! Trong lúc này, cô là người hữu dụng nhất ở đây và tôi sẽ gửi cô đến Mogotovo ở phía Bắc.
Ông kéo
ra một tấm bản đồ từ đống giấy tờ bên cạnh ông và trải nó ra giữa bàn.
- Nó ở cách đây bốn mươi dặm về phía Bắc. Nhưng
lần nữa, xin nhắc lại, xin đừng coi nó như bốn mươi dặm ở quê nhà. Đường cái không trải nhựa và đi xe mất tám hay chin tiếng đồng hồ, đôi khi còn lâu hơn.
Tôi nghĩ là mùa đông sẽ di chuyển bằng xe trượt tuyết dễ dàng hơn.
- Ở Mogotovo có một ngôi nhà rất
lớn đã được nhà chức trách địa phương
giao phó cho chúng ta. Ở đó chúng ta sẽ tập trung
các trẻ em bị lạc gia đình và cố dựng lên một trạm y tế nhỏ cho toàn thể vùng quê chung quanh, cả người tỵ
nạn lẫn dân địa phương. Bác sĩ Manning và
trợ tá Morgan đã ở đó rồi nhưng không có người thông dịch. Một lố hàng quần áo giày dép đã được gửi đến và
chúng sẽ được phân phát cho tất cả các làng mạc trong khu vực. Nhu cầu quá nhiều mà đồ không đủ phân phát nên phải chia sẻ sao
cho mỗi gia đình có được chút đỉnh gì đó.
Một đôi giầy cho mỗi gia đình, một chiếc áo ấm
để đám con cái có thể chia nhau mặc, đại khái như thế. Đó là lý do tại
sao chúng ta cần người hiểu họ: mọi vật mọi thứ phải được chia sẻ rất thận trọng
trong một khu vực rất rộng lớn.
Daisy chỉ gật đầu. Cô quá mệt
mỏi để cảm nhận bất cứ chuyện gì.
- Cô Stubbs! Cô sẽ đến Lubimovka nơi chúng ta đang cố mở lại
bệnh viện. – Ông lại chỉ tay lên tấm bản đồ tới một địa điểm ở phía Nam có khoảng cách cũng tương đương với
Mogotovo ở phía Bắc.
Daisy có vẻ thất vọng như
người bị dao đâm vào ngực. Elzabeth
Stubbs là một cô gái có tài năng và trầm
lặng và Daisy có ý nương tựa vào cô
trong hành trình này, Bây giờ hai người cách nhau đến tám mươi dặm đường.
- Cô D’Ete! Cô sẽ đi Mogotovo với cô Barshinskey để cố lập
nên nhà trẻ mồ côi, và ông Foulgar sẽ đi
cùng. Anh Goode tạm thời đến Lubimovka. Sau này, có lẽ tôi sẽ nhờ anh mở một trung tâm mới ở phía Nam. Và bây giờ,
tất cả hãy nghe các biện pháp dự phòng:
Chúng ta phải dùng chất
carbolic tắm rửa mỗi ngày. Và nếu phải ngủ lại, một căn nhà nào
của các dân quê địa phương, điều mà khi đi phân phát đồ chẩn
chúng ta sẽ gặp phải, thì ngay khi trở về
nhà, mọi thứ quần áo ăn bận trong người
cũng phải được ngâm giặt trong carbolic.
Trong suốt mùa hè, phải tiếp
tục uống thuốc ký ninh, nhất là những người làm việc trong các trung tâm phía
Nam. Bệnh sốt rét lan truyền thường xuyên
tại đây. Phải báo cáo ngay tức thì khi có dấu hiệu nhuốm bệnh.
Tất cả nước dùng ăn uống
phải được nấu sôi. Điều này sẽ không lâu lắm. Khi muà đông đến, chúng ta có thể
làm tuyết tan để xử dụng cho cả ăn uống
và tắm rửa.
Chúng ta phải ăn uống đầy đủ,
cho dù có thấy đau lòng hay bực bội thế nào vì
những người chúng ta giúp đỡ không đủ ăn. Tình trạng thực phẩm đang khả quan hơn và nên nhớ nếu chúng ta đau
yếu sẽ chẳng giúp được gì. Một lần nữa xin nhắc lại, tiêu chuẩn vệ sinh là điều kiện tiên quyết. Phải
chắc chắn dùng chất carbolic ở bất cứ nơi nào chúng ta phải đào một lỗ làm vệ
sinh cá nhân. Tôi đề nghị chúng ta không dùng chung nhà cầu với người địa phương.
Daisy nhận thấy Flora D’Ete
đang đỏ mặt lên. Cô bất ngờ nhận ra sự khó khăn làm sao cho một người chưa bao giờ đối diện với sự nghèo khổ phải xử dụng phương tiện vệ sinh sơ khai hay phải đào lỗ dưới đất, ngủ chung lều với người dân quê mùa, không tránh
được lũ chấy rận.
- Tôi cũng e là thư từ từ nhà gửi qua sẽ mất nhiều thời gian để tới đây.
Tôi cũng không biết tại sao, chính các bạn
chỉ mất hai tuần lễ để đi đến đây. Chúng
ta sẽ sắp xếp để có những buổi hội họp và
cầu nguyện khi thuận tiện. Một số trong chúng ta ở các trung tâm nhỏ rất cô đơn,
chỉ có hai người ở Bogdanovka. Họ cần chúng ta cầu nguyện cho họ. Đôi khi… - Giọng
ông hơi khàn đi. - Đôi khi thật khó để
nhớ lại rằng Thiên Chúa đang phụ giúp chúng
ta khi chúng ta ở nơi quá xa xôi cách trở này…
Dưới ánh đèn dầu, gương mặt
họ trở nên lợt lạt và nhỏ bé. Phía dưới bàn, Daisy cảm thấy Flora nắm lấy tay cô.
- Chúng ta có nên cùng thầm
lặng cầu nguyện chung không? – Robert Tatlock nhìn quanh
do dự hỏi. Họ chụm lại sát cạnh nhau. Flora đưa cánh tay kia để trên mặt
bàn, bàn tay run rẩy. Và rồi Daisy thấy
Andrew Goode đặt tay mình lên bàn tay
Flora. Từng người một,họ nắm tay quanh bàn, trong sự nhỏ nhoi và sợ hãi, họ cầu
nguyện cho có sức mạnh và sự quyết tâm
giữa cái đêm tối của nước Nga bao la này.
Sáng hôm sau họ khởi hành trên hai chiếc xe thồ mà chúng chỉ lớn hơn
hai cái hộp chút xíu, trên bánh xe có bọc rơm để làm giảm nhẹ đi những cú xóc muốn
bể xương trên đoạn đường gồ ghề dơ bẩn.
Hai cô gái Daisy và Flora ở trên một chiếc, họ ngồi trên chiếc rương hành lý. Còn
ông Fougar trên chiếc xe kia với nhiều bao đậu và gạo. Ngay tức khắc, một đàn
ruồi khổng lồ bay tới bao vậy che kín mặt mũi họ, chui cả vào mũi và miệng.
Daisy khẽ kêu lên một tiếng kinh hoảng và dùng đôi tay đập loạn xạ lên không, một
cử chỉ càng làm cho đám ruồi hoạt động mạnh đến cực điểm. Cô nhìn sang Flora và thấy
chúng bám đầy trên tóc,và quanh đôi mắt cô.
- Mau lên Flora! Lấy khăn tay
ra buộc che mặt lại.
- Tôi sợ ruồi lắm. – Flora run
rẩy nói. - Ghét chúng thậm tệ. Thứ đồ dơ
dáy bẩn thỉu.
Khi chiếc xe tăng thêm tốc độ vượt qua cánh đồng hoang. Đám ruồi đã thưa thớt hơn một
chút. Sau khoảng chừng nửa giờ, người lái xe, một dân quê vạm vỡ với gương mặt xạm nắng trong chiếc áo lót ngắn tay châm một điếu thuốc và thổi khói ngược trở
lại vào mặt hai người. Mùi khói thuốc trộn
lẫn với mùi hành và mùi hôi của hàm răng
bị sâu, nhưng Daisy không cảm thấy gì
ngoài việc biết ơn và mở lời cám ơn ông ta với đầy nhiệt tâm.
Chỉ mới đi được ít dặm đường trên vùng đất khô cằn bằng phẳng mà Flora đã đổ bệnh. Daisy muốn dừng
xe lại nhưng Flora nhất định không cho.
- Tôi là người bị say xe. Có dừng lại thì ngay khi khởi hành
trở lại tôi cũng đổ bệnh ngay. Vả lại chúng ta ngưng thì đám ruồi
lại bám đầy….
Daisy cố gắng lau bớt bụi bặm
và mồ hôi trên khuôn mặt xanh như tàu lá của cô bạn. Sau một hồi, cô gục đầu vào
vai của Daisy và thở dồn dập.
- Stoi! Stoi! (Dừng lại). –
Diasy la lên với người lái xe. Sau vài
bước cà giật và lắc mạnh, chiếc xe ngưng lại. Ông Foulgar kéo
tới bên cạnh.
- Chuyện gì thế!
- Tôi nghĩ Flora đã ốm rồi.
- Chỉ là say xe thôi mà. – Cô
thều thào, đôi mắt vẫn nhắm. - Tôi lúc nào
cũng thế! Còn nhớ khi ở trên tàu vượt biển chứ?
- Có lẽ chúng ta nghỉ ngơi một
chút.
Mặt trời toé lửa trên đầu họ. Đám ruồi bu lại, và Daisy cũng bắt đầu cảm thấy muốn bệnh.
- Có lẽ chúng ta nên tìm một bóng mát để nghỉ, một ngôi làng chẳng hạn… Để
tôi thử coi…
Cô mò mẫm lại tiềm thức để
tìm ra chữ, và cuối cùng cũng nhớ ra được những từ ‘ nhà’, ‘đàn bà’ và ‘đau ốm’.
Người lái xe trổ ra một tràng thổ ngữ .
Phải mất một lúc khá lâu cô mới hiểu ý ông ta.
- Ông nói ông sẽ lái chầm chậm
đến ngôi làng kế cận và Flora có thể nghỉ ngơi tại đó.
Việc lái chậm chỉ đỡ hơn một
chút. Chiếc xe vẫn cứ lắc lư và có những
lúc tưởng như muốn lật nhào sang một bên. Sau chừng một giờ, qua lớp bụi mịt mờ, Daisy nhìn thấy một màu vàng
loé mắt của chỏm cầu của một nhà thờ. Khi họ đến nơi, ngôi làng là một khúc
đường rộng bao quanh bởi những căn
nhà gỗ có một giếng nước ở trung tâm. Nổi lên cao giữa cái cảnh quan màu nâu dơ bẩn là ngôi nhà thờ
với ba màu sắc vàng, xanh và trắng. Người lái xe đánh xe tới một căn nhà gần nhà thờ và nói với
Daisy điều gì đó, mà cô phải vật lộn mãi với ký ức mới hiểu.
- Đây là nhà của ông trưởng
thôn. Chúng ta có thể nghỉ ở đây.
Người ta kéo nhau từng đám
ra khỏi nhà bu lại xem bọn họ, lũ trẻ
con chân đất, đầu cạo trọc và đám phụ nữ trong bộ đồ vải thô tự dệt lấy dơ bẩn
màu nâu xám. Trẻ con vài đứa lao xao nói
năng một chút, nhưng hầu hết chỉ đứng ngó.
Daisy có cảm tưởng nếu cô tiến tới gần có lẽ họ bỏ chạy.
Họ đi vào căn nhà gỗ thấp mái
qua một chuồng bò ở bên hông nhà dẫn tới một gian phòng nhỏ nồng nặc
mùi hơi người lâu ngày không tắm rửa làm Daisy muốn bịt mũi.
- Cố đừng thở bằng mũi. – Cô
thì thầm bảo Flora. Có một dãy ghế dài
chạy dọc hai bên tường gian phòng,
cô dẫn Flora đến một chỗ còn trống và đỡ cô nằm xuống. Chung quanh toàn là các bà già và con nít đầy
phòng.
Mồ hôi lại vã đầy trên trán của Flora và cô vẫn thở hổn hển. Chung quanh phòng, những
bà già chăm chú nhìn cô. Rồi một người
nghiêm nghị nói một câu.
- Bà ta hỏi chúng ta có muốn ăn chung với họ không. – Daisy nói, còn
Flora rên rỉ. Trước khi cô có thể cố mò ra chữ để từ chối một cách nhã nhặn, một
phụ nữ tuổi xồn xồn đi đến cái lò khổng lồ
mang lại đưa cho họ một cái tô bằng gỗ đựng những quả trứng rất nhỏ.
Daisy nhìn ông Foulgar vừa mới theo họ bước vào.
- Tôi nghĩ có lẽ chúng ta phải
ăn. – Cô nói. - Tôi nhớ đến cha tôi… Nếu
ta từ chối sẽ rất bất lịch sự. Nếu tôi và ông ăn, thì Flora được miễn. Hai người chúng ta chia nhau
ăn, như vậy mỗi người sẽ không ăn quá nhiều thức ăn của họ.
Rồi cô mỉm cười, cố gật đầu
với một cử chỉ hoà nhã, cô cầm lấy một quả trứng và nói : ‘ spasibo’ (xin cám ơn)
cố làm ra vẻ thật nồng ấm và cuối cùng cũng nhận được một nửa nụ cười. Cô đưa tay ra dấu về phía Flora, đặt tay lên
bụng và lắc đầu. Những cái ly chứa một
thứ chất lỏng màu nâu được mang ra mời và lại từ một nơi nào trong ký ức cô nghĩ
ra đó là thức gì.
- ‘Kvas’. - Cô nói với ông Foulgar. - Tôi nghĩ là
uống được. Đó là một loại bia lên men. Có lẽ nó vô hại.
Cô nhìn quanh và đếm được có tới mười lăm người trong một gian phòng nhỏ
bé không kể con nít mới sinh. Có hai dãy ghế
gỗ dài, một cái bàn, một tượng ảnh thô sơ trong một góc phòng, ít da cừu
phủ trên nóc lò và một loại giường xếp ở
gần cửa, trên đó một đứa trẻ ốm nhom
xanh lướt nhìn họ với cặp mắt lờ đờ chẳng có tí quan tâm nào.
Cô chỉ về phía đứa nhỏ: ‘Ốm hả?’ Cô hỏi, nhưng người đàn bà
chỉ nhún vai kiểu đành chịu theo số mệnh. Con cái nhà ai ? Đây
là dân tỵ nạn hay dân quê địa phương? Họ
giống hệt nhau, bẩn thỉu và thảm thương.
Mắt cô bỗng chú tâm lên tường nhà, nơi những con gì trông như bọ chét bò rất nhanh
qua những tấm ván và cô phải cố kiềm chế
một tiếng la nhỏ. Chúng là một loại bọ mới ở trong nhà mà cô chưa từng thấy. Cô bắt đầu cảm thấy như có có những con sâu tưởng tượng đang bò trên
da thịt.
- Flora! Cô đã thấy đỡ hơn chưa?
Tôi nghĩ chúng ta nên đi tiếp.
Họ dìu cô trở lại xe. Daisy
cố nhét thêm vào xe một bao nhét đầy rơm hy vọng Flora có thể nghỉ ngơi thuận tiện hơn, nhưng chỉ được mười phút là cô lại trở ốm. Hành trình
trở nên một cơn ác mộng. cảnh vật phẳng lặng khô héo, ruồi muỗi, bụi bặm và cái
dĩa tròn rực lửa từ trên trời chiếu xuống chẳng có gì che chở trở thành một hậu cảnh kinh hoàng cùng
với
tiếng ụa mửa liên tục của Flora. Mất hơn tám tiếng đồng hồ và nhiều lần
ngưng lại, cuối cùng họ tới một chỗ nghỉ ở một rừng thông. Người lái xe quay đầu lại nói với cô.
- Flora! Ông ta nói giờ không
còn xa nữa. Cố chịu đựng một chút nữa thôi. -
Cô lấy khăn tay ra lau mặt Flora. Cả hai
người đều dơ dáy với những vòng bụi
quanh mắt và miệng, mặc dù đã che mặt.
- Thật khó chịu. – Flora thì
thào. - Thật đau đớn, trước đây, mình chưa bao giờ say xe mà trong người khó chịu
như vầy.
Mặt cô nóng rát như bùng cháy
với những hạt mồ hôi lấn tấm trên trán. Daisy mong ước phải chi có được
Elizabeth bên cạnh. Giờ này cô ấy đang trên đường tới Lubimovka ở phía Nam.
Cuối cùng họ cũng ra khỏi
khu rừng và nhìn thấy ngôi làng. Lại vẫn là
sự tập trung những căn nhà bằng gỗ như thường lệ, nhưng có một vài căn
to lớn và kiên cố hơn nhiều những căn nhà lân cận, Trông rõ ràng là một ngôi làng sung túc.
Ngôi nhà thờ với hai chỏm cầu và một tháp nhọn có cây cối và một bức tường trắng
thấp bao quanh. Khi họ tới nơi, căn nhà to lớn trông lạ thường giữa vùng đất hoang và ngôi làng
của dân quê. Nó là một biệt thự màu trắng rộng lớn gồm hai tầng lầu với
một bồn cao chứa nước và một mái hiên đồ
sộ với hàng cột lớn. Khi họ tiến đến gần hơn, họ có thể thấy rõ lớp xi măng trắng tô tường bên ngoài đã bị tróc loang lổ, và cây cỏ trong khu vườn
bao quanh mọc chi chit và hoang dại. Bức tường bao quanh khu vườn đã đổ nát. Ánh nắng
đang nhạt dần, và khi Daisy bước xuống xe, một đám côn trùng có cánh đã thay thế đàn ruồi bay lượn vần vũ trên đầu cô. Chúng châm chích
lên cổ lên mặt cô.. Ông Foulgar vội vã từ
phía sau bước tới.
- Chúng ta phải đưa Flora vào
trong nhà càng nhanh càng tốt. - Cô nói qua cái miệng còn nghẹt đầy bụi bặm.
Hai người đỡ Flora xuống, mỗi
người một bên. Cánh cửa lớn của căn nhà bật mở và có hai bóng người bước xuống
mấy bực cấp. Lời gìới thiệu được trao đổi
vội vã, và rồi thật nhẹ gánh, Daisy đã có
thể chuyền Flora qua tay bác sĩ Manning.
Chỉ mãi một lúc lâu sau đêm đó, khi đã tạm
ổn trên cái giường gỗ thấp trải nệm rơm,
cô mới chợt nhận ra mình đã dùng tên
Flora để gọi cô bạn mà không chút bối rối.
Flora mắc bệnh kiết lỵ. Không thể giải thích được, bởi ông Foulgar và Daisy không ai bị vướng, nhưng ở một nơi nào đó trên đường, Flora đã bị truyền
nhiễm. Sau này, trong thời gian ở lại Modotovo, tất cả họ đều phải chịu đựng nhiều lần đủ loại kiết lỵ. Ba người trong số bị sốt rét ác tính và một người mắc bệnh yết hầu.
Daisy, dù đã uống ký ninh thường xuyên,
vẫn không tránh khỏi sốt rét. Sau đó, có một loại dịch sốt truyền nhiễm lan toả trong
cả bệnh xá cạnh nhà nuôi trẻ mồ côi,
thật may mắn, tất cả họ đều tránh khỏi, nhưng những cơn sốt mùa hè thường xuyên làm họ suy
yếu, và suốt mùa đông đen tối và dài dằng dặc, lại bị cảm lạnh và cúm hành hạ.
Cô cứ nghĩ là mình sẽ được chỉ định săn sóc Flora, nhưng có nhiều
việc phải làm cần đến cô hơn. Chưa đầy hai hôm, cô và ông Foulgar lại ra đi
trên chiếc xe lắc lư đến muốn rụng xương để đi quan sát điều kiện sinh hoạt của
dân tỵ nạn trong các làng mạc và phân phát cho họ mớ quần áo đầu tiên. Họ trở lại
trong vòng bốn ngày, bị lây lan chấy rận
và lòng đầy khắc khoải bởi cú chạm trán
đầu tiên với sự khốn cùng. Ông Foulgar, dù không thông hiểu ngôn ngữ, cũng chẳng thấm vào nỗi tuyệt vọng ít hơn và đâm
ra có trạng thái bi quan cùng cực.
- Chúng ta không có đủ cho họ. – Ông nói gần như khóc. -
Họ chẳng có gì cả. Hoàn toàn không. Thật không thể tin được là con người lại thực sự không có một cái
gì hết. Và sự thờ ơ không còn tha thiết gì của họ mới là đáng sợ. Nhìn một người phụ nữ ngồi dưới đất mở to mắt
mà không nhìn gì hết , không cả để ý tới đám con la khóc bên cạnh, thật không
thể nào hiểu nổi… rằng lại có ai trở nên
thảm hại như thế cho dù bất cứ gì đã xảy ra với họ.
- Không! - Daisy chậm rãi nói. – Không khó hiểu gì đâu.
Cô thấy chuyến đi thật dễ sợ bởi cô rất hiểu con người họ. Cô đã có thể thấy chính mẹ cô trong hình ảnh người đàn
bà mòn mỏi ngây dại không còn tha thiết gì với cuộc sống ấy. Cô có thể thấy lại chính cô và Ivan trong đám
trẻ con với những vết đau trên miệng và không đủ áo quần lành lặn che thân. Cô đã muốn trốn chạy khỏi sự khốn khổ của họ để mà gào khóc lên, bởi cô đã dùng biết bao nhiêu
năm tháng cố bỏ lại cái quá khứ kinh hoàng đó sau lưng. Nhưng bây giờ cô lại
chuẩn bị bước vào cơn ác mộng ghê gớm mà
chính cô từng là một phần của sự nghèo
khổ đáng sợ, cái khốn khổ quá tệ hại hơn
bất cứ gì cô biết trước đây, khốn thay,
lại quá quen thuộc.
Khi lắng nghe câu chuyện của
người tỵ nạn, những ông già bà cả sống sót, những người mẹ mà con cái đã chết hết
trên hành trình băng qua lục địa, cô nhận ra những gì còn lại trong con người có phẩm giá đã tiêu tan hết.
Những người đàn bà từng là chủ các nông trại với bộ cánh sang trọng mặc ngày Chúa
Nhật, họ có lò nướng bánh tại nhà và
cung cấp cho gia đình những bữa ăn ngon trên bàn ăn có khăn trải trắng toát. Bây giờ , họ phải sống
nhờ vào lòng từ thiện của những người chỉ
hơn họ một chút. Để chống lại sự hoảng hốt, Daisy nghĩ: Mình phải cố giống như Sophie. Mình phải nhớ
những gì Sophie đã làm cho gia đình mình nhiều năm trước đây. Và mình phải nhớ cái cảm giác của gia đình mình. Cô cố gắng giải
thích cho ông Foulgar:
- Đó là sự sở hữu. – Cô nói.
– Tôi biết là không hay ho gì khi đánh giá
họ qua việc sở hữu, nhưng người
nghèo chẳng có gì khác để tự đo lường mình.
Họ cần một vật gì đó.
- Cô muốn nói họ cần loại vật
gì? – Bác sĩ Manning hỏi. Những người khác cũng chăm chú theo dõi, cố hiểu lời
cô nói, lo lắng để tìm ra bất cứ gì có
thể giúp .
Đó là vào buổi tối, thời gian đã ăn xong bữa và
chén đĩa đã được dọn dẹp lau chùi. Đây là
giờ giấc duy nhất họ có thể ngồi lại với nhau trong một góc của căn phòng tiếp
tân rộng thênh thang của ngôi biệt thự cổ. Họ chỉ có một ngọn đèn dầu thắp quanh chỗ họ ngồi. Phần còn lại của căn phòng
chìm trong bóng tối với tiếng chuột bọ
lao xao.
- Bất cứ thứ gì… miễn là họ có
thể giữ riêng cho mình. Một quyển sách, cho dù là quyển sách về máy móc xe lửa,
một chiếc khăn tay, một cái rổ, một chảo chiên đồ ăn. Nếu ta có một cái gì thuộc về riêng mình, vậy
thì ta bắt đầu là một con người. Chẳng hạn ta là chủ của một cái chảo, ta có một
bản sắc. Ta có thể bắt đầu thấy được mình, tự so sánh mình với những người
chung quanh. Những người tỵ nạn này không còn biết họ là ai nữa bởi họ chẳng sở hữu một cái gì. Tất cả họ chỉ là một
màu xám, họ cùng chung một màu xám xịt.
Mọi người im lặng và cô không
biết có làm cho họ hiểu gì không. Tất cả họ là những người tốt, nhưng làm sao họ
có thể hiểu như cô đã hiểu?
- Chúng ta chẳng làm được gì.
- Cuối cùng bác sĩ Manning nói. - Đành phải chờ thêm quần áo từ Luân Đôn tới.
Cho tới lúc đó, chúng ta chẳng có gì để cho họ.
Những đôi giày bốt bằng nỉ từ Mạc Tư Khoa gửi đã đến, và Daisy lại đi ra ngoài. Và bởi
vì họ chỉ có một ít đem cho, cô cố cho
luôn những phần của riêng cô, cố lắng nghe những mẩu chuyện đã xảy đến với họ và cả cuộc sống trước đây của
họ.
Họ từng sống trong một khu
vực nông nghiệp tương đối giàu có, và đã
được di tản đến một cộng đồng đám dân quê
còn sống như ở thời Trung Cổ. Họ chỉ giống
với những người cho họ trú ngụ ở mỗi hai
thứ: ngôn ngữ và tôn giáo. Cô lắng nghe họ, và vì cũng là một dân quê nên
cô hiểu. Cô hiểu rằng nếu mình quen ăn mỡ
heo với bánh làm bằng lúa mạch, thì bụng sẽ chuyển khi phải ăn mỡ cừu với bánh
mì. Cô hiểu rằng nếu nhà mình bị phá hủy
tan tành và chồng con mình chết vì đói
lạnh và bệnh tật, thì đôi khi chỉ những sự khác biệt vụn vặt trong cuộc
sống hằng ngày cũng tạo nên nỗi tuyệt vọng cuối cùng.
Cô ngồi hằng giờ trên những
sàn nhà bẩn thỉu, chịu đựng sâu bọ chích đốt để thấm sâu vào nỗi đau buồn của họ,
và rồi lại nhận thêm ra rằng, những người
chứa chấp họ cũng có những nỗi khổ phải
chịu đựng. Cuộc sống của những người dân quê Samarian này (kẻ giúp người hoạn nạn giữa đường theo dụ ngôn của Thánh Kinh) dù
chưa giúp đỡ những người tỵ nạn phiền phức từ
miền Tây tới cũng đã đủ khó khăn
rồi.
Mùa đông đến. Dường như mùa
thu chỉ là vài tuần lễ ngắn ngủi, và rồi một buổi sáng cô thức dậy sớm và chợt
thấy một làn tuyết nhẹ bay ngang cửa sổ. Khi cô bước ra khỏi giường, những cơn bão tuyết nho nhỏ từng chập nổi lên trong làn gió
tháng Chín. Vừa chạm mặt đất là chúng đã tan. Nhưng vào tuần lễ sau, một trận
tuyết rơi dầy dặc trong đêm, nằm nguyên trên mặt đất. Đến cuối tháng Mười, mặt đất hoàn toàn bị bao phủ và cuộc sống trở nên dễ dàng hơn ở nhiều khía
cạnh.
Chiếc xe chạy rung muốn rụng
xương được cất vào kho, và cặp ngựa được chuyển qua kéo xe trượt tuyết. Bây giờ
họ có thể lướt đi trên mặt đất. Chỉ mất
năm giờ để tiếp tế đồ từ Buzulus. Ruồi
muỗi, bụi bặm và một số chấy rận đã biến mất. Cảnh vật trở nên xinh đẹp. Đồng hoang giờ thành một đại dương
bao la trắng xoá với những nhấp nhô gồ ghề tạo thành các đợt sóng. Vào tháng Mười,
khi Robert Tatlock đưa đồ tiếp tế đến, ông mang cho tất cả họ những chiếc áo
khoác da cừu hơi sờn rách và không sạch lắm, nhưng thật cần thiết vì mùa đông đã đến.
Họ sống trong một trạng thái kiệt quệ và thất vọng lạ lùng,nhưng vẫn phấn
khởi thật đáng ngạc nhiên. Niềm phấn khởi đến từ cái thế giới kỳ diệu trắng toát bên ngoài, bầu trời
xanh trong sáng và cây cối bao phủ trong tuyết, đôi khi thấp thoáng bóng dáng một con nai trong rừng
thông. Mặc dù hiếm hoi hơn, niềm phấn khởi cũng đến từ cái cảm giác về tinh thần huynh đệ hỗ tương của họ. Nhưng
thất vọng và cạn kiệt hầu như lúc nào cũng
ở bên họ.
Mùa đông đầu tiên làm họ
suy nhược nhất. Suy nhược và xuống tinh thần, nhất là những người như Flora
sinh trưởng trong một gia đình thuộc tầng lớp trung lưu nhàn nhã.
Bọn trẻ, được gom lại từ những
mái nhà tranh ở các làng mạc quanh đó, tất cả hầu như mồ côi, vài đứa còn không biết chúng là ai, chúng đã học những thói xấu của loài thú hoang trong hành
trình lang thang của chúng qua suốt Âu Châu và Turkestan. Chúng ỉa đái bất
cứ chỗ nào khi cần giải quyết, trộm cắp, đánh nhau giành giật trong giờ ăn như đám mèo hoang gầm gừ, có lần tranh
cướp thức ăn đến làm đổ cà bàn.
Một buổi tối, mệt mỏi và ngứa
ngáy vì bị bọ chét cắn sau một đêm tạm trú tại căn lều của một dân quê địa phương,
Daisy lại gặp Flora nước mắt chảy dài ở
bên ngoài phòng ngủ của cô. Thật phi lý với cuộc sống của họ là ở giữa sự nghèo
khổ đói rách lại có một biệt thự to lớn vô chủ
có quá nhiều phòng ngủ. Càng vô lý hơn khi căn phòng khách vĩ đại có sàn
lót bằng gỗ quý bị đám trẻ lớn tuổi cạy lên đem đốt .
- Cô bị ốm hả Flora?
Flora lắc đầu chỉ tay về phía
phòng ngủ của mình, trong giây phút cô không
thể mở miệng nói được.
- Bọn chúng lại vào phòng cô
lục lọi nữa sao? Có lấy mất gì không?
Cô qua mặt Flora bước vào
phòng của cô ấy. Bên cạnh giường ngủ là một bãi cứt với một mớ giấy vò nát mà kẻ
phạm tôi lấy để chùi đít. Daisy nhìn vào đó
chán nản vô cùng.
- Chán thật! - Cô mệt mỏi nói. - Trước đây , bọn chúng chưa làm thế trong phòng
chúng ta.
- Không phải chuyện đó. –
Flora lắc đầu nói. - Chuyện là ở tờ giấy.
Đó là lá thư mới nhất mẹ mình từ nhà gửi qua. Minh biết giữ lại nó là ngốc
nghếch, nhưng…
Cứ khoảng
mỗi sáu bảy tuần họ nhận được thư từ. Đó là may mắn lắm. Có khi còn thưa thớt hơn.
Nhiều thư từ và bưu kiện bị giữ lại ở
Petrograd hay Mạc Tư Khoa. Những lá thư này vô cùng quý giá. Chúng là sự nối kết
với gia đình, một sự nhắc nhở cho họ rằng vẫn có những nơi chốn trên
thế giới mà đời sống cũ của họ vẫn đang
hiện hữu. Họ đọc đi đọc lại thư nhiều lần,
và khi đọc xong họ thường chia sẻ một số
chuyện với nhau.
Daisy cố tìm lời an ủi.
- Flora à! Chúng ta đã làm
được một bước tiến triển lớn rồi. Ít
ra, giờ bọn chúng đã bắt đầu xử dụng giấy
cho việc đó. Lúc trước chúng chẳng dùng
gì để chùi cả.
Flora đăm đăm nhìn cô, rồi
từ nỗi thất vọng phá ra cười.
- Cô qua phòng tôi ngồi nghỉ chút đi, để tôi dọn dẹp cho.
- Không. Ồ! Đâu được! Mình đâu có quyền mềm yếu. Mình phải chia sẻ
những chuyện không vừa ý với mọi người chứ.
- Cô làm phần cô. Còn chuyện
này để tôi.
Sau đó, khi cô trở về phòng,
tay vẫn còn đầy mùi carbolic. Flora đang
ngồi bên cửa sổ nhìn tuyết rơi.
- Tôi tự hỏi mình đi đến đây
có đúng không Daisy? Tôi cảm thấy mình chẳng có ích lợi gì cho công việc. Mình
ghét bụi đất và … nói ra thật xấu hổ…nhưng mình thường ghét cả con người họ nữa. Mình biết họ chẳng đặng đừng, nhưng đôi khi mình thấy họ
dường như không phải giống người. Tôi không
thấy mình giúp đỡ được cho ai trong các bạn, và tôi trở thành một gánh nặng.
Cô cúi mặt xuống đôi bàn tay và bắt đầu tấm tức
khóc. Daisy trông dáng hơi mất kiên nhẫn
vì cô đã mệt, chỉ còn biết vỗ vai cô.
- Tất cả chúng ta ai cũng chán nản. – Cô nói. –
Tôi cảm thấy tôi cũng chẳng giúp được gì
nhiều. Mà tôi còn cảm thấy vậy lâu rồi,
từ trước khi chúng ta tới đây nữa kìa.
- Cô! – Flora sững người nói.
- Sao thế! Cô không thể
nào có cảm giác ấy được.
- Có thật mà!
- Nhưng hiện cô là người hữu dụng nhất trong nhóm. Nói được tiếng Nga, biết sửa
lại mấy cái lò sưởi chết tiệt đó để xài, biết nên dùng thứ thực phẩm nào để nấu
cho cả chín chục miệng ăn, và dường như cô chẳng phiền hà lắm với bùn đất và tình
trạng nhà vệ sinh tồi tệ… - Cô ngừng lại
một chút với một cái nhíu mày nhỏ rồi tiếp.
- Cô ra vẻ hiểu những con người đáng ghét
này hơn cả nhóm, và nhất là dường như cô biết phải làm gì cho họ.
- Đó là bởi có một nửa máu Nga chảy trong con người tôi. Tôi nghĩ thế.
– Daisy bối rối nói. - Hoặc có lẽ bởi tôi
đã từng nghèo khổ.
Cô nhìn Flora
và bỗng thấy thương hại rằng, quả thực cô ấy không hữu dụng lắm.
Cô tử tế, ngọt ngào và có ý tốt, nhưng luôn luôn phải được hỗ trợ và khuyến khích. Rồi cảm thấy
mình có ý nghĩ xấu và mặc cảm tôi lỗi với bạn, Daisy nói tiếp.
- Tôi thực sự không phải là
người hữu dụng nhất. Chính bác sĩ Manning, Hannah và Elizabeth mới là những người
hữu dụng nhất. Đôi khi tôi nghĩ những
người tới đây làm chỉ nên là các nhân viên
y tế.
- Cô có nghĩ là chúng ta sẽ
có ngày trở về nhà không? - Flora trẩm
giọng hỏi. - Liệu chiến tranh sẽ kết thúc?
Cây nến để cạnh giuờng của Daisy lung linh tạo nên một vùng sáng ở giữa phòng. Trời lạnh, nhưng không
đến mức không chịu đựng nổi, vì những lò sưởi ở các phòng phía dưới được mở nóng suốt đêm. Căn phòng thì rộng rãi, to lớn với những đường thiết kế công
phu. Cái giường gỗ lại nhỏ bé với cái bàn thô nhám chỉ có duy nhất một cái ghế
trông không thích hợp tí nào. Daisy nghĩ
tới việc về nhà, trở lại với bà Fawcetts, với ngôi làng, với ‘con bé Daisy
May đáng thương’ ngày xưa. Và rồi cô nhận ra một điều là cô sẽ không bao
giờ trờ lại làm ‘con bé Daisy May đáng thương’ ấy nữa. Nếu cô có quay lại nhà
Fawcetts, mọi việc sẽ phải khác đi.
- Tôi hy vọng có một
ngày chúng ta sẽ trở về nhà. – Cô cố nói an ủi bạn .
- Tuyết lại rơi xuống nữa rồi!
Daisy bước tới đứng bên cạnh
cô. Bên ngoài một cơn bão tuyết đang vần
vũ và hai người có thể nghe tiếng chuông nhà thờ chầm chậm đổ trong làng.
- Bão tuyết thì thật tệ. – Cô
nói. - Nếu có ai phải đi ra ngoài lúc này,
họ nhanh chóng bị lạc lối. Chúng ta vẫn
rất may mắn ở đây, bên trong nhà, với sự ấm áp.
- Dĩ nhiên là may mắn. – Flora nói với một quyết tâm
lạc quan trở lại. – Chúng ta phải luôn luôn nhớ rằng mình
may mắn biết bao, và tôi phải cố gắng để thành hữu dụng.
Cô từ trên ghế đứng bật dậy
và đi ra cửa.
- Tôi không nghĩ mình có thể
làm được gì ở đây nếu không có cô, Daisy à!. – Cô run run nói. - Thật như thế!
Nhưng, tôi thật mong ngóng được quay trở về nhà.
Cô rời phòng và Daisy còn
ngồi nán lại một lúc nhìn ra những nạm tuyết
quay cuồng. Về nhà? Thế nào là nhà,
và ở đâu? Nhà Fawcetts ư? Không phải. Cô chăm lo săn sóc cho căn nhà bà Fawcett
nhưng đó không phải là nhà. Căn nhà ‘tổ cú’, và những lều, những kho chứa, những
mái tranh gia đình cô sống trước khi đến căn nhà ‘tổ cú’? Nhà Willoughbys? Có lẽ có một chút. Đó là nơi gần nhất cô có thể gọi nó là nhà. Nhưng mặc dù với những đối xử rất tử tế của họ, mặc
dù với người bạn thân Sophie, đó vẫn không phải nhà của mình.
Cô run rẩy nhìn quanh căn phòng ngủ quá lớn với cái trần nhà đúc khuôn kiểu cọ và mớ đồ đạc
thô sơ trong phòng.
- Mình không có nhà. – Cô nhủ
thầm với mình. – MÌnh chưa có nhà. Nhưng có ngày rồi sẽ có. Có một ngày, mình sẽ
có một nơi gọi là nhà.
(Xem
tiếp chương 20)
No comments:
Post a Comment